My Blog List

Friday, August 30, 2013

Fwd: [thieusinhquanbcl] Fw: [batkhuat] TÀI LIỆU : Phỏng vấn Nguyên Đ ề- Đốc Tư- Lện h Hải- Quân TRẦN VĂN CHƠN

Trang Web Điệp mỹ Linh chuyên về tài liệu của Hải Quân VNCH.
Đáng lưu trữ.
Thắng
 Phỏng vấn Nguyên Đề-Đốc Tư-Lệnh Hải-Quân TRẦN VĂN CHƠN
Nếu có thì giờ, vào trang Web của tác giả Diệp Mỹ Linh: "HQVNCH ra khơi", gồm 11 Chương nói về lịch sử, tổ chức của HQVNCH. 
Tài liệu rất xác thực, đầy đủ về HQVNCH nên xem. 
Ngoài bài phỏng vấn Đô Đốc TVC, còn có những bài phỏng vấn ĐĐ Chung Tấn Cang, Tướng Vĩnh Lộc, Lâm Quang Thi, Hồ Văn Kỳ Thoại...
Tớ đã đọc, link:
http://diepmylinh.webs.com/phanmucluc.htm

Phỏng vấn Nguyên Đề-Đốc Tư-Lệnh Hải-Quân TRẦN VĂN CHƠN - ĐIỆP-MỸ-LINH


ĐIỆP-MỸ-LINH
Trích từ Hải-Quân V.N.C.H. Ra Khơi, 1975
LGT.- Năm 1990, khi cuốn Tài Liệu Lịch Sử Hải-Quân V.N.C.H. Ra Khơi, 1975 của Điệp-Mỹ-Linh được xuất bản tại Hoa-Kỳ thì Cựu Đề-Đốc Trần-Văn-Chơn vẫn còn bị Cộng-Sản Việt-Nam cầm tù.
Bài phỏng vấn này – được thực hiện vào năm 1992, chỉ hai tuần lễ sau khi Cựu Tư-Lệnh Hải-Quân Trần-Văn-Chơn đến Hoa-Kỳ theo diện H.O. – đã đăng vào phần "Phỏng Vấn Những Nhân Vật Liên Hệ Đến Chuyến Ra Khơi Cuối Cùng của Hải-Quân V.N.C.H."khi cuốn Tài Liệu Lịch Sử Hải-Quân V.N.C.H. Ra Khơi, 1975 được tái bản.
ĐML.- Xin Đô-Đốc vui lòng cho biết một cách khái lược về tiểu sử của Đô-Đốc.
ĐĐC.- Tôi được sinh ra trong một gia đình Nho Giáo, lớn lên tại Vũng-Tàu. Lúc thiếu thời tôi đã quen tiếng sóng vỗ đầu ghềnh, mắt đã quen với cảnh trời nước mênh mông. Tôi thường nô đùa trên bãi cát trắng, đồi dương xanh, rượt còng lúc đêm trăng, bắt óc khi ngày nắng, hoặc lên núi cao nhìn ra biển rộng, theo dõi những cánh buồm lặng lẽ tận chân trời.
Tôi thích viễn du từ thuở bé. Lớn lên tôi học trường Hàng-Hải Saigon và làm sĩ quan, theo tàu lướt sóng vượt trùng dương từ tuổi hai mươi. Ba mươi hai tuổi tôi theo học khóa I sĩ quan Hải-Quân – Khóa Đệ Nhất Thiên Dương. Ba mươi bảy tuổi tôi đảm nhiệm chức vụ Tư-Lệnh Hải-Quân. Ba mươi chín tuổi tôi theo học trường Hải-Chiến Hoa-Kỳ - U.S. Naval War College. Sau khi mãn khóa, tôi về Việt-Nam, làm việc tại Ban Nghiên-Cứu, Bộ-Quốc-Phòng; Trung Tâm Trắc-Nghiệm Khả-Năng Tác-Chiến, Bộ-Tổng-Tham-Mưu; và Lực-Lượng Tuần-Giang, Bộ-Tư-Lệnh Địa-Phương-Quân. Bốn mươi sáu tuổi tôi trở lại Hải-Quân đảm nhiệm chức vụ Tư-Lệnh Hải-Quân lần thứ hai, ngày 31-10-1966. Năm mươi bốn tuổi tôi hồi hưu vì quá hạn tuổi. Tôi bàn giao chức vụ Tư-Lệnh Hải-Quân cho Đề-Đốc Lâm-Ngươn-Tánh.
ĐML.- Thưa Đô-Đốc, có nguồn tin nói rằng, vào thời điểm sôi sục nhất của cuộc chiến, Đại Tướng Dương Văn Minh có ý mời Đô-Đốc tham gia vào nội các của Đại-Tướng. Đúng hay không, thưa Đô-Đốc?
ĐĐC.- Tôi không thích chính trị, không hiểu biết nhiều về chính trị và tôi cũng không nghe ai nói với tôi về việc Đại-Tướng Dương-Văn-Minh mời tôi tham dự nội các của Ông ấy.
Khoảng năm 1955 tôi tham dự cuộc hành quân Đinh-Tiên-Hoàng tại miền Tây và cuộc hành quân Hoàng-Diệu tại Rừng-Sát với chức vụ Chỉ-Huy-Trưởng Giang-Lực, dưới sự chỉ huy hành quân của Đại-Tướng Minh; lúc đó Đại-Tướng Minh mang cấp bậc Đại-Tá Lục-Quân. Chúng tôi quen nhau từ đó và được Đại-Tướng đối xử trong tình chiến hữu thân thiết. Từ khi Ông làm Quốc-Trưởng cho đến lúc Ông nhận chức Tổng Thống, chúng tôi chỉ gặp nhau vào những cuộc họp, nhưng tình chiến hữu giữa chúng tôi không lúc nào bị sứt mẻ.
ĐML.- Thưa Đô-Đốc, sáng 25 tháng 4-1975, nhân lúc ghé tư dinh của Đô-Đốc để thăm Bà, tôi hân hạnh được gặp cả Đô-Đốc nữa. Hôm đó tôi có hỏi Bà và Đô-Đốc về ý định di tản. Cả Bà và Đô-Đốc đều khẳng định là Đô-Đốc và gia đình sẽ không đi đâu cả.
Xin Đô-Đốc vui lòng cho biết lý do nào Đô-Đốc không muốn di tản?
ĐĐC.- Khoảng 20 tháng 4 năm 1975, khi được tin Đô-Đốc Elmo Zumwalt nhờ tùy viên Hải-Quân dành máy bay cho tôi và gia đình tôi di tản sang Mỹ, tôi tức tốc về Vũng-Tàu rước Ba Má tôi vào Saigon để chuẩn bị rời Việt-Nam.
Lên đến Saigon, Ba Má tôi quá xúc cảm trước cảnh bi đát trong cuộc lui quân và di tản dân chúng từ miền Trung vào, Ba Má tôi rất buồn rầu và khổ tâm. Ba Má tôi không khuyên chúng tôi nên ra đi hay ở lại. Nhưng, qua sắc thái của Ba Má tôi, tôi thấy được rằng Ba Má tôi rất đau khổ khi phải rời bỏ nơi chôn nhau cắt rốn. Qua nhiều ngày đêm suy nghĩ, lưỡng lự và cầu nguyện, tôi quyết định cùng vợ con ở lại với Ba Má tôi. Tôi hy vọng rằng đức hạnh tu hành của Ba Má tôi có thể che chở cho gia đình tôi bất cứ trong trường hợp nào.
Ngoài lý do Cha Mẹ già yếu, tôi vẫn nhớ tôi đã từng là Hạm-Trưởng và vẫn giữ tinh thần Hạm-Trưởng mặc dù tôi đã về hưu. Truyền thống cao quý của Hải-Quân là Hạm-Trưởng không bỏ tàu. Vả lại, người ta thường nói "Sinh vi tướng, tử vi thần", thì trường hợp tôi không di tản cũng là chuyện bình thường.
ĐML.- Thưa Đô-Đốc, có nguồn tin nói rằng Đại-Úy Trần Văn Chánh, con của Đô-Đốc, đưa chiến hạm trở về để đón Đô-Đốc mà Đô-Đốc và gia đình cũng vẫn không chịu di tản. Đúng hay không, thưa Đô-Đốc?
ĐĐC.- Vâng. Đúng. Thời gian đó, Đại-Úy Chánh là Hạm-Trưởng HQ 601. Hôm 29 tháng 4 Chánh đưa Đô-Đốc Chung Tấn Cang, Đô-Đốc Diệp Quang Thủy cùng gia đình của hai vị này từ Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân ra chiến hạm lớn đang hoạt động ngoài khơi Vũng-Tàu. Hôm sau, Chánh đưa chiến hạm xuyên qua vùng bị địch chiếm, trở về Saigon, với ý định rước tôi và gia đình ra khơi. Nhưng vì gia đình tôi và tôi đã đồng ý ở lại với Ba Má tôi cho nên Chánh trở lại chiến hạm, họp thủy thủ đoàn và quyết định tháo ống cho chìm tàu rồi chia tay.
Lòng trung hiếu của Chánh làm tôi hãnh diện vô cùng. Và hành động của thủy thủ đoàn HQ 601 đã chứng tỏ Hải-Quân V.N.C.H. đã rèn luyện được tinh thần Vô Úy mãnh liệt trong hàng ngũ sĩ quan, hạ sĩ quan và thủy thủ.
ĐML.- Thưa, nếu Đô-Đốc vẫn còn là Tư-Lệnh Hải-Quân vào thời điểm cuối tháng 4 năm 1975, Đô-Đốc sẽ có những quyết định nào khác với những quyết định của Đô-Đốc Chung Tấn Cang hay không?
ĐĐC.- Nếu tôi vẫn còn giữ nhiệm vụ điều khiển Hải-Quân có lẽ tôi cũng lui quân về miền Tây cố thủ, để củng cố lực lượng và rước gia đình binh sĩ. Nếu quân V.N.C.H. lâm vào cảnh thế cùng lực tận thì rút dần ra Phú-Quốc để chờ đợi sự can thiệp của Liên-Hiệp-Quốc. Nếu đồng minh của mình cũng vẫn không giúp mình trong cảnh khốn cùng thì đành phải ra đi để bảo toàn lực lượng như các anh em Hải-Quân đã làm mà thôi.
ĐML.- Xin Đô-Đốc vui lòng cho biết những sự việc đã xẩy ra cho Đô-Đốc sau ngày 30 tháng 4 năm 1975.
ĐĐC.- Sau khi chiếm được Saigon, Cộng-Sản kêu gọi sĩ quan Quân-Lực V.N.C.H. ra trình diện. Vì đã giải ngũ, tôi không trình diện. Tôi lẫn tránh. Đến cuối tháng 6, Cộng-Sản lại ra thông cáo, buộc những sĩ quan đã giải ngũ cũng phải trình diện để đi học tập, đem theo tiền cơm một tháng.
Tôi trình diện tại ký túc xá Minh-Mạng. Tại đây tôi gặp Trung Tướng Dương Văn Đức và một số đông sĩ quan đã giải ngũ.
Hai ngày sau, Cộng-Sản chuyển Trung Tướng Đức và tôi đến Trung-Tâm Huấn-Luyện Quang-Trung cũ, do quân đội Bộ-Quốc-Phòng quản lý. Nơi đây tôi gặp lại tất cả Tướng Lãnh đã tập trung từ đợt trước. Chúng tôi ở đây gần một năm rồi bị chuyển bằng máy bay ra trại Yên-Bái, miền núi rừng Bắc Việt. Tại Yên-Bái, chúng tôi lao động khổ sai, không được gia đình thăm nuôi.
Hai năm sau, chúng tôi bị chuyển đến trại Hà-Tây (Hà-Sơn-Bình), do công an Bộ-Nội-Vụ quản lý. Thời gian này chúng tôi được gia đình tiếp tế bằng bưu kiện. Nếu không có sự tiếp tế của gia đình thì người tù cải tạo của Cộng-Sản Bắc-Việt không thể sống được!
Sau 5 năm tại trại Hà-Tây, một số sĩ quan cấp Tướng – trong đó có tôi – được thả về Saigon, sau cuộc hội nghị đầu tiên giữa Tướng Vessy và Cộng-Sản Việt-Nam.
Sau khi nhận và đọc giấy ra trại tôi mới biết "cáo trạng" của tôi:
  • Bị can tội: Thiếu Tướng Đề-Đốc.
  • Bị bắt ngày: 23-6-1975.
  • Bị án: Phạt tập trung cải tạo.
  • Tư tưởng: Chưa biểu hiện gì xấu.
  • Tham gia học tập: Khai báo còn chung chung.
  • Chấp hành nội quy: Chưa sai phạm gì lớn.
  • Xếp loại cải tạo: Trung bình.
ĐML.- Xin Đô-Đốc vui lòng cho biết, với bí quyết nào mà sau thời gian dài bị tù đày trong nhiều trại cải tạo, Đô-Đốc vẫn giữ được phong thái ung dung, thanh thản và một cơ thể khỏe mạnh như vậy?
ĐĐC.- Nhờ Trời ban phước cho nên sức khỏe của tôi cũng bình thường, da dẻ hồng hào, lưng còn thẳng, nhưng tóc đã bạc trắng. Con người không thể nào chống lại được sự tàn phá của thời gian; nhất là thời gian dài trong chốn lao tù Cộng-Sản. Nhiều người hỏi tôi thiền theo phương pháp nào mà được sắc thái đạo cốt tiên phong. Tôi không thiền theo phương pháp nào cả. Tôi thường nghe nói: "Tướng chuyển do tâm. Tâm trung xuất hình ư ngoại". Có lẽ tâm mình thoải mái nên vẻ mặt thấy vui tươi, hớn hở chứ không có bí quyết gì đâu.
ĐML.- Thưa, sau khi Đô-Đốc ra tù và sau khi Đô-Đốc đến Hoa-Kỳ, thân tình giữa đại gia đình Hải-Quân đối với Đô-Đốc có khác xưa hay không?
ĐĐC.- Sau khi tôi ra tù, rất nhiều bạn bè cũ trong nước đến thăm; nhất là anh em Hải-Quân, Tuần-Giang, Hàng-Hải Thương-Thuyền. Ở nước ngoài có các bạn Hải-Quân như Đào, Thăng, Quỳnh, Dõng, Thơ, Minh, Hưng, Tươi, v. v…viết thư thăm hỏi và gửi quà cho tôi. Thư của các bạn đầy tình thân.
Khi đến Mỹ, các bạn Hải-Quân ở San Jose đến đón tôi tại phi trường San Francisco và mở tiệc liên hoan mừng tôi thoát khỏi gông cùm Cộng-Sản. Những bạn Hải-Quân ở Los Angeles, San Diego, Virginia, Houston, Seattle, Chicago, v. v…cũng mở tiệc mừng tôi đã đến được xứ tự do.
Sau ba tháng tái ngộ cùng các chiến hữu Hải-Quân, tôi nhận thấy, mặc dù Hải-Quân V.N.C.H. đã "tan hàng" gần 17 năm, nhưng Tinh Thần Hải-Quân vẫn còn vững trong mỗi người lính Hải-Quân V.N.C.H.. Tình thân thiết "huynh đệ chi binh" khiến cho Hải-Quân kết đoàn với nhau rất chặt chẻ trong hệ thống tôn ti trật tự của một đại gia đình. Trước tinh thần này, trước tâm tư, nguyện vọng này, tôi tin tưởng rằng không sớm thì muộn con cháu của chúng ta sẽ hợp lực cùng chúng ta hoặc thay thế chúng ta khôi phục lại quân chủng Hải-Quân.
ĐML.- Thưa, Đô-Đốc có ý định viết hồi ký hay không?
ĐĐC.- Nếu viết hồi ký về Hải-Quân V.N.C.H. thì, tôi nhận thấy, cuốn Hải-Quân V.N.C.H. Ra Khơi, 1975 của Điệp-Mỹ-Linh và những bài trong đặc san Lướt Sóng, nhiều anh em Hải-Quân đã ghi lại những hoạt động của Hải-Quân một cách trung thực. Những quyển sách này có thể dùng làm tài liệu để bổ sung cho quyển Lịch Sử Hải-Quân V.N.C.H., trong đó Ban Lịch Sử của Bộ-Tư-Lệnh Hải-Quân đã ghi rõ những hoạt động hằng ngày của Hải-Quân, từ tổ chức cho đến hành quân.
Nếu viết hồi ký cho riêng tôi, tôi nghĩ từ trước đến nay công việc của tôi làm không có gì đặc sắc. Mọi việc đều do các chiến hữu đảm đương và hoàn thành. Tôi chỉ có ý kiến, xem xét, kiểm tra, đôn đốc. Thêm nữa, trí nhớ của tôi không được minh mẫn lắm. Hồi tưởng lại những sự kiện đã trải qua hằng hai ba mươi năm là một việc khó nhọc đối với tuổi già này. Viết hồi ký cũng cần có tài liệu chính xác để chứng minh những dữ kiện. Tôi chưa có phương tiện để làm việc này.
ĐML.- Thưa, Đô-Đốc nghĩ như thế nào về cuốn Chân Dung Tướng Ngụy?
ĐĐC.- Tác giả quyển Chân Dung Tướng Ngụy là một người Cộng-Sản. Mà người Cộng-Sản thì không bao giờ nói tốt cho một người không Cộng-Sản. Đó là nguyên tắc của họ. Vì vậy, trong cuốn Chân Dung Tướng Ngụy, tác giả dùng những lời lẽ không chính đáng để bôi nhọ bất cứ nhân vật nào thuộc chính quyền và Quân-Đội V.N.C.H.
ĐML.- Xin cảm ơn Đô-Đốc.*
*.- Theo truyền thống Hải-Quân quốc tế, khi tiếp chuyện với cấp Tướng Hải-Quân,mọi người đều dùng danh từ Đô-Đốc, dù vị Tướng ấy là Phó-Đề-Đốc hoặc Đề-Đốc.
 
 

Buồn Vui Thời Đi Biển

vn-hq-101
*
Bóng dáng thanh lịch và oai hùng của những chiếc khu trục hạm mũi nhọn mình mỏng đang rẽ sóng lướt nhanh trên mặt biển xanh đậm, cắt mặt nước làm đôi với 2 tia bọt nước trắng xoá 2 bên mũi tàu, làm cho tôi say mê những chiếc tàu chiến, say mê biển cả, say mê viễn du. Tôi có cảm tưởng như những con tàu đó có sức mạnh ngự trị trên cả thiên nhiên, coi đại dương mênh mông là nhỏ bé.

Tôi ao ước được chỉ huy hững chiến hạm này vì tôi thường được nghe kể rằng Hạm Trươ?ng là một chức vụ vinh dự nhất trong Hải Quân và khi chiến hạm ra biển thì Hạm Trươ?ng là người có toàn quyền định đoạt mọi việc, "tiền trảm hậu tấu", nhất Trời nhì ta!
Một ông Trời con giữa đại dương bát ngát mênh mông, ngự trị trên một con kình ngư oai phong dũng mãnh như thế thì thử hỏi ai mà không mê cho được, nhất rồi còn gì nữa! Đó là lý do tôi đã gia nhập Hải Quân và có lẽ đó cũng là lý do mà một số các chàng trai cùng thời đã gặp tôi và trở thành bạn tôi trong 38 năm nay.
Chúng tôi thi vào học khoá 13 Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang vào đầu năm 1963. Ngày xuống Hải Vận Hạm Lam Giang (HQ 402) ở bến Bạch Đằng Saigon để đi Nha Trang thụ huấn chúng tôi hơi thất vọng vì các sĩ quan tương lai đã không được đối xử như mong muốn. Chúng tôi tưởng rằng sẽ đươ.c ở 1 khu riêng dưới tàu với giường ngủ qua đêm trong thời gian gần 2 ngày hải hành, được nuôi ăn như những thuỷ thủ của chiến hạm, nhưng thực tế là chúng tôi đã đươ.c thả rong trong sàn tàu, nơi dùng để chuyên chở xe tăng, tự tìm lấy 1 chỗ trên
boong hay nơi các ổ súng để làm giường ngủ. Việc ăn uống thì phải tự túc. Chúng tôi đều phải mang theo khẩu phần khô. Họ coi chúng tôi là khách quá giang, ngoài quân số của chiến hạm, nên không có phần ăn trên tàu. Còn giường ngủ thì chiến hạm không phải là loại tàu
chở hành khách nên không có cả trăm chiếc giường bỏ không cho chúng tôi dùng.
Ngồi buồn trên khẩu Boford đôi 40 ly phòng không của chiến hạm, tôi ngắm nhìn các bạn cùng khoá, những thằng con trai sáng sủa bảnh bao mới bước vào ngưỡng cửa Đại Học. Mọi ngày có vẻ "vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa" lắm, Vespa, Solex lươ.n quanh phố xá Saigon, dẫn đào đi dạo Catinat, Nguyễn Huệ dáng dấp rất là công tử. Thế mà hôm nay sao thấy bệ rạc quá, bộ vó phong nhã biến đi đâu mất dành chỗ cho những bộ mặt ngơ ngáo, quần áo xốc xếch. "Gia tài của mẹ để lại cho con" vỏn vẹn có cái sắc marin trên vai. Dăm ba thằng rủ nhau đi kiếm chân 1 ổ súng hay 1 góc sàn tàu kín đáo để làm "tổ ấm" trong thời gian hải hành.
Tôi nhớ lại hai hôm trước, chúng tôi trình diện ở trại Bạch Đằng II để lãnh quân trang. Khi các anh em mới gặp nhau buổi sáng ở ngoài sân, vì vui quá nói chuyện hơi ồn ào một chút thì một trung sĩ nhất, có lẽ là quản nội trươ?ng của trại, bước ra. Trước khi ra lệnh cho chúng tôi, thay vì ôn tồn nói: "Các anh hãy im lặng nghe tôi nói đây", thì ông ta đã quát lớn một cách rất oai hùng: "Chúng mày có câm mồm đi không ?".
Chúng tôi sợ quá bèn câm mồm hết, im như tờ. Trong đầu óc chúng tôi không ai tránh khỏi thắc mắc là tại sao trong quân đội người ta lại có thể khai thác quyền hành một cách quá trớn tới mức trở nên thô lỗ đến như thế được ? Tôi cho rằng đó là đặc tính của một số người VN, những người không có tư tưởng dân chủ sau thời gian dài bị đô hộ bởi người Pháp. Tư cách của những quan thực dân Tây đối với dân bản xứ đã ăn sâu vào đầu óc họ mất rồi. Khi họ có chút quyền hành thì họ khai thác triệt để quyền của họ và trở thành lạm quyền một cách lố bịch, ngươ.c lại khi họ ở vào vị thế không có quyền hành thì họ trở nên hèn hạ, qụy lụy đến mất cả nhân phẩm.
Không biết có phải vì mới ngày đầu đã gặp "những điều trông thấy mà đau đớn lòng" như thế nên hôm nay nét mặt anh em trở nên u buồn chán nản hay không. Có bạn nóng tính đã hứa với anh em là khi ra trường sẽ xin về phục vụ cùng đơn vị với trung sĩ này để dậy dỗ
cho anh ta nên người. Thế nhưng sau đó chúng tôi đều quên hết. Đó là đức tính của tuổi trẻ, dễ quên và dễ tha thứ, ai nấy đều muốn đi phục vụ các đơn vị tác chiến hoặc hải hành để học hỏi đươ.c nhiều điều hay, chứ không muốn làm việc có tính cách phục vụ hậu cứ như đơn vị của trung sĩ này. Người ta thường nói "gần mực thì đen, gần đèn thì rạng", nhỡ chẳng may "lây" tính nết của ông này thì bỏ mẹ !
Tàu chạy vòng vo tam quốc trong sông Lòng Tào, vì là giờ nước lớn, vả lại bờ sông không cao, đứng trên boong tàu tôi có thể nhìn thấy ruộng đồng bát ngát đến tận các làng mạc nơi xa. Con sông ngoằn nghoèo như một con rắn lớn, có nhiều khúc cong quá đến độ tôi thấy
những nhà cao tầng của Saigon lại hiện ra trước mũi tàu khi tàu đã đi xa khỏi Saigon khá lâu rồi. Thành phố Saigon thân yêu cứ xa dần, xa dần, mãi cho đến khi khuất hẳn. Chúng tôi đã thực sự "lìa xa thành đô yêu dấu" để tạm gọi là "xếp bút nghiên theo việc đao cung"
mặc dù vẫn còn phải dùng đến bút nghiên ít nhất là 2 năm nữa và đao thì chẳng biết dùng, cung cũng chẳng biết bắn !
Đứng trên thành tàu nhìn cảnh trời mây, sông nước, với nền trời xanh mây trắng kéo vần vũ, suy nghĩ mông lung, tôi chợt nhớ tới câu nói bất hủ của Tổng Thống Hoa Kỳ đương thời, đã được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trên báo chí: "Đừng hỏi quê hương có thể
làm được những gì cho mình, hãy tự hỏi mình có thể làm được gì cho quê hương". Tôi thầm nghĩ ông này thực sự là người có tài khích động lòng người. Đúng là người đươ.c huấn luyện để trở thành nhà lãnh đạo! Câu nói của ông cũng đã ảnh hưởng rất mạnh
đến việc đông viên tinh thần giới trẻ như tôi.
Tôi liên tươ?ng đến thực tế, hiện thời chúng tôi sắp nhập Trường Sĩ Quan Hải Quân, một trường nổi tiếng lịch sự, hào hoa và trí thức nhất trong quân đội, thế mà đêm nay chúng tôi sẽ phải gối sắc marin nằm sàn tàu sắt, bị bỏ đói. Thật là tương phản, ai đâu ngờ rằng trước khi trở thành sĩ quan của một quân chủng hào hoa và lịch sự, chúng tôi lại phải qua chặng đường này. Nghĩ đến câu nói bất hủ của ông Kennedy thì tôi lại tự nhủ quả thực mình chưa làm đươ.c gì cho quê hương, vậy cũng không nên đòi hỏi gì và tôi bắt đầu vui với cuộc đời phong sương mới này. Có lẽ dần dà rồi cũng quen đi, quen với đời sống phong sương vất vả, quen với sự hy sinh không đòi hỏi trả công, quen với thái độ của những người như ông trung sĩ kia đối với người dưới quyền. Tôi thương hại ông ta hơn là ghét và tôi tự nhủ hãy lấy gương ông ta mà tu thân cho nên người.
Chiến hạm ra khỏi cửa Cần Giờ, tên của cửa sông Lòng Tào, chừng mươi phút thì tàu bắt đầu lắc ngang làm chúng tôi lao đao, tuy nhiên vì chưa có trách nhiệm gì trên tàu nên những ai không say sóng thì vẫn đi lại và lên boong tàu ngắm cảnh trời mây sóng nước, còn những
ai say sóng hay mệt thì cứ tự do nằm nghỉ nơi "tổ ấm" mà mình đã chọn. May mắn thay chuyến đi này không gặp sóng gió nhiều, một ngày rưỡi rồi cũng trôi qua một cách êm ả. Chúng tôi nhập quân trường vào ngày 13 tháng 4 năm 1963 với sự đón rước "nồng hậu" của các
sinh viên khoá đàn anh vì khi đó khoá đàn anh của họ đã mãn khoá và được tung ra khắp 4 vùng chiến thuật rồi. Họ đang buồn vì không có ai để quay chơi cho vui.
Học được 6 tháng thì chúng tôi có chương trình thực tập đi biển lần đầu, thật là háo hức. Chúng tôi phải chuẩn bị mua sắm để tự túc thực phẩm khô dùng cho 2 ngày đi biển. Vì trường không có huấn luyện hạm riêng, phải mượn chiến hạm của Bộ Chỉ Huy Hạm Đội vài ngày để huấn luyện sinh viên nên đối với chiến hạm chúng tôi là khách quá giang, không ai nấu ăn cho chúng tôi cả. Chúng tôi lo chuẩn bị các thứ như cá mòi đóng hộp, bánh mì khô, kẹo, bánh ngọt, bánh bisquit, trái cây v. v. . Chúng tôi không đứa nào quên mang theo giấy vệ sinh và giâý lau tay để lau chùi khi ói mửa.
Chiến hạm dùng để thực tập lần này là loại hộ tống hạm, một loại chiến hạm chuyên dùng để hộ tống các đoàn "convoi" ngoài biển nên rất chịu sóng, có thể hải hành trong những điều kiện biển 3, biển 4 là thường. Chỉ có vấn đề nhân sự trên tàu có chịu nổi sóng hay không mà thôi. Mới bước chân lên chiến hạm tôi đã thấy khó chịu vì mùi dầu gasoil dùng chạy máy cộng thêm với mùi khói do máy diesel phun ra hai bên thành tàu và mùi tanh tanh của nước biển còn đọng trên boong tàu chưa rửa sạch. Sau 2 tháng bị hành hạ thể xác với chương trình huấn nhục, ăn uống thiếu dinh dưỡng, tập tành khắt khe, anh em chúng tôi ai nấy đều hốc hác, riêng tôi đã sụt mất khoảng 4, 5 kí trong 2 tháng này. Bốn tháng kế tiếp chưa đủ thời giờ để hồi lực nên chuyến hải hành đầu tiên đối với chúng tôi có vẻ vất vả lắm.
Trên tàu, theo lệnh sĩ quan toán trưởng, chúng tôi chia thành ba chi đôi. để đi phiên song song với nhân viên chiến hạm. Ngày đầu tiên phiên của chi đội tôi bắt đầu lúc ba giờ chiều, chấm dứt lúc sáu giờ chiều và là phiên trên đài chỉ huy. Chúng tôi lớ quớ như những đứa trẻ con, chẳng biết làm gì, chỉ nghe theo lời giảng giải của sĩ quan toán trươ?ng về cách dùng các dụng cụ hải hành và lý thuyết đi biển. Lúc đầu tuy mệt nhưng chưa đến nỗi say, ai nấy lo ghi ghi chép chép để khi về có tài liệu viết phúc trình. Chừng năm, sáu giờ chiều sóng gió bắt đầu nổi lên. Mặt mũi chúng tôi ai nấy xanh lè, buồn thiu, bút sách cứ thấy biến dần, chỉ còn vài tên thuộc loại chì sóng vẫn tiếp tục ghi chép đươ.c mà thôi.
Đối với tôi tàu chỉ lắc vài cái là tôi đã bắt đầu thấy nôn nao khó chịu, tim tôi bắt đầu đập loạn xạ, không chịu theo nhịp bình thường nữa, thế mà tàu cứ lắc liên miên, đôi khi còn trồi lên thụp xuống rất mạnh làm cho ruột gan tôi như muốn lộn ra ngoài. Tôi thấy bải hoải tay chân, mắt hoa đầu váng, người như mất hết năng lực, không còn sức đứng vững nữa, chỉ muốn nằm đại xuống sàn tàu. Đâu đó nghe có tiếng oe., một sinh viên đã nôn vào một cái sô gần đó. Tôi cố cầm cự nhưng chỉ được vài phút sau thìtôi cũng phải noi gương anh bạn. Vì tôi không đứng gần cái sô nào cả vả lại khi đó tàu đang nghiêng chừng 30 độ về bên tôi đứng, tôi không còn sức chạy ngươ.c dốc để đến cái sô phía bên kia tàu, bèn chạy xuống dốc cho nhanh, ra bám vào thành tàu cúi xuống để làm cái việc "cho cá ăn chè".
Gió lớn quá, "chè" chua loét của tôi đâu có đến với cá đươ.c, nó đã bị thổi ngươ.c lại và rơi ngay trên đỉnh đầu một thằng bạn đang đứng ở sàn tàu dưới học về hải pháo. May thay trên đầu nó có đội mũ casquette, đỉnh mũ của nó nhận gần hết "bát chè nhầy nhụa" của tôi thân tặng. "Chè" còn tung toé trên người và trên hai vai của nó, bê bết trên hai gù vai mang alpha vàng choé. Nó giật mình hét lớn lớn:
- Mẹ thằng nào đó ?.
Khi ngẩng đầu nhìn lên nó nhận ra thằng "Mới nhìn thấy tàu đã say" thì nó bớt giận, dịu giọng: " Trời ơi! Sao không cho vào sô mày ? Ghê quá, chết tao rồi!". Thằng "Mới nhìn thấy tàu đã say" chính là tôi, tên này do anh em đã "rửa tội" cho tôi kể từ chuyến thực tập vận chuyển lần đầu bằng tàu nhỏ, quân vận đĩnh (LCM) trước đó ít lâu, vì tôi là một trong vài người yếu chịu sóng nhất khoá. Có lẽ nhờ mang tên này mà tôi lấy đươ.c "lòng thương" của những thằng bạn chì sóng trong khoá. Vì thứ nhất là khi tôi say sóng thì người tôi như cái bị rách, trông rất tội nghiệp, còn hơn người bị bịnh thương hàn cả tháng trời, ai trông thấy cũng thương hại; thứ nhì là dù tôi mang đi bao nhiêu thực phẩm dự trữ cho hai ngày hải hành tôi cũng biếu lại cho những thằng bạn chì sóng hết, nuốt gì nổi mà nuốt. Tụi nó đươ.c ăn nhiều đồ ăn của mình thì dĩ nhiên thương mình rồi!
Thằng bạn mà tôi đã tặng nó "bát chè" đầu tiên là một thằng chì sóng bực nhất của khoá, nó gầy tom, dáng dấp thư sinh trắng trẻo và hiền như . . . "ma sơ" vì thế nó đươ.c rửa tội với tên Gà Mái. "Gà Mái" bây giờ lạc bước giang hồ xuống tận nam bán cầu, ở xứ đầy Kangouru. May mà "trời sinh" ra cái "long distance call free" với internet chứ không thì tôi phải tốn bộn tiền điện thoại viễn liên với nó vì nó rất chậm tiến, không thích dùng máy điện toán để liên lạc bằng i meo!
Tôi nhận thấy một điều rất lạ là những thằng càng gầy thì lại càng chì sóng. Trong khoá tôi còn có một tên gầy teo chỉ có da bọc xương, đen xì và ăn rất khoe?, anh em đã phải gọi nó là "Tử Thần". Tôi chắc nếu nó xin gia nhập Không Quân để trở thành phi công thì sẽ không đựơc tuyển vì người ta e rằng khi nó muốn hạ cánh, máy bay nhẹ quá không đáp xuống được, sẽ bay hoài cho đến khi hết nhiên liệu mới chịu rơi xuống. Vào Hải Quân lại là đất dụng võ của nó. Trong khi anh em đều say khướt nằm la liệt thì nó đi vòng vòng hỏi : " Thằng nào không ăn đươ.c đâu, đưa hết đây tao ăn cho." Hình như khi nào có sóng to gió lớn thì nó lại ăn khoẻ hơn thì phải. Không biết say sóng như nó kể cũng sung sướng thiệt !
Người ta thường nói cuộc vui nào rồi cũng qua đi. Trong khi thực tập hải hành thì tôi thấy đau khổ nào rồi cũng qua đi, nhất là đau khổ vì say sóng! Những chuyến thực tập hải hành như vậy rất cực nhọc đối với tôi nhưng may thay nhờ Trường Sĩ Quan Hải Quân chưa có huấn luyện hạm riêng nên chúng tôi chỉ phải đi thực tập vài chuyến trong suốt hai năm học mà thôi. Các huấn luyện viên thì nói rằng mai mốt mãn khoá ra trường, xuống chiến hạm có trách nhiệm rồi thì sẽ bớt say sóng và sẽ quen, vì thế chúng tôi, những thằng "mới nhìn thấy tàu đã say" cũng yên lòng phần nào để tiếp tục học hành mà không . . . đào ngũ.
Khi ra trường tôi đươ.c bổ nhiệm xuống hộ tống hạm Kỳ Hoà HQ 09, một loại chiếm hạm tác chiến dùng để hộ tống và tuần tiễu nên khi nào đi công tác là đi cả tháng chứ không đi vài ngày như những chiến hạm chuyển vận. Tôi lo lắng lắm vì thấy một tương lai rất là vất vả đang chờ mình. Tôi không biết mình sẽ phải làm sao để chịu đựng được những lần biển nổi cơn thịnh nộ như những lần tôi đi thực tập khi còn trong quân trường. Thêm vào đó người ta còn nói hạm trưởng chiến hạm này rất khó tính và khắt khe nên các sĩ quan đươ.c thuyên chuyển xuống tàu đều tránh né, trì hoãn để tìm cơ hội xin đi đơn vị khác. Thuỷ thủ đoàn đã đặt tên cho chiến hạm là "Kỳ Hoà Tự", một ngôi chùa để những kẻ chán đời đến tu !
Chuyến hải hành đầu tiên của tôi là chuyến công tác tham dự chiến dịch Vũng Rộ Theo tin tình báo Mỹ, một tàu địch chở đầy vũ khí khởi hành từ Hải Phòng, giả dạng tàu buôn ra khơi về phía đông, tận ngoài hải phận quốc tế. Từ đây nó đổi hướng, đi về phía nam để đánh lạc hướng các nơi theo dõi. Đến ngang Nha Trang nó lại đổi sang hướng tây vào ban đêm, trực chỉ vào bờ , thẳng vào Vũng Rô để đổ súng đạn vào mật khu của chúng.
Không tuần của Hải Quân Mỹ đã theo dõi tàu VC, khi tầu địch vào đến hải phận VN Cộng Hoà mới báo cho các đơn vị chiến hạm Hải Quân VN chận bắt. Tàu địch đã bị chận bắt trong hải phận của ta, vì cùng đường, biết không chạy thoát được nên chúng đã đâm thẳng vào bờ ngay tại Vũng Rộ Tất cả thuỷ thủ đoàn chạy trốn lên đất liền để thoát vào mật khu. Nơi này được địch phòng thủ rất kiên cố, các ổ súng lớn của chúng đều ở trên núi và dấu trong các hang trên cao, miệng hang nhìn ra biển, vì thế những cuộc oanh tạc của Không Quân không có hiệu quả, chỉ có trọng pháo của Hải Quân từ biển nhắm thẳng vào các miệng hang của những ổ súng địch mà khạc đạn thì mới làm chúng câm họng đươ.c.
Tin từ chiến trường cho biết là HQ 405 đã bị thiệt hại rất nhiều mà không thể nào ủi bãi để tịch thu súng đạn địch trên tàu xâm nhập vì hoả lực địch quá mạnh. Ngoài ra trên bờ ngay nơi chân núi sát biển còn có mật khu của địch với các hầm chứa đầy vũ khí mà chúng đã xâm nhập từ trước. Những khẩu Boford đôi 40ly của HQ 405 không đủ sức công phá các hang kiên cố này, nay chỉ trông chờ vào 76.2 ly của hộ tống hạm mà thôi.
Đươ.c lệnh khởi hành khẩn cấp để tăng viện cho chiến dịch, HQ 09 khởi hành ngay vào buổi chiều, đúng hai ngày sau khi tôi trình diện chiến hạm. Hạm Trươ?ng là thiếu tá Trang, khoá 4. Chiến hạm không có hạm phó vì hạm phó cũ đã thuyên chuyển, hạm phó mới chưa trình
diện. Xử lý thường vụ hạm phó là thiếu uý Từ, khoá 12, sau đó là hai thiếu uý trong đó có tôi, như vậy theo cấp số thì chiến hạm thiếu ít nhất là ba sĩ quan, nhưng vẫn phải đi công tác như thường.
Thường thường khi có sĩ quan mới ra trường xuống chiến hạm thì hạm phó cắt đặt cho đi phiên chung với một sĩ quan thâm niên hơn trong một thời gian. Sau khi xét thấy sĩ quan mới này đã đủ điều kiện làm trưởng phiên thì mới trao phiên chính thức. Vì HQ 09 ở trong tình trạng thiếu sĩ quan như thế nên ba thiếu uý bị bắt buộc phải làm trươ?ng phiên ba "ca", vì không lẽ bắt hạm trươ?ng đi một "ca" sao ? Vì thế tôi không có thời gian để thực tập .
Chiến hạm đến cửa Cần Giò đã là 8 giờ tối và là phiên của tôi trên đài chỉ huy cho đến 12 giờ đêm. Tháng 2 là tháng của mùa gió bấc, gió thổi từ hướng đông bắc rất mạnh. Ra khỏi Vũng Tầu, khi bắt đầu đi hướng đông bắc thì tàu vừa lắc vừa nhồi. Sau khi đã thấy chiến hạm vào đúng đường rồi và không còn gì nguy hiểm về đá ngầm nữa, hạm trưởng nhắc tôi cẩn thận rồi rời đài chỉ huy. Nguy quá, ông trao trách nhiệm cho tôi, đương nhiên coi tôi như đủ khả năng làm sĩ quan trươ?ng phiên. Phiên hải hành đầu tiên mà tôi đã phải làm sĩ quan trưởng phiên, có trách nhiệm lo hướng dẫn con tàu theo đúng hải trình. Nhờ có trách nhiệm, tôi cũng có bớt say sóng một chút nhưng tôi hơi lo vì một mình tôi sẽ phải gánh hết trách nhiệm, nếu có chuyện gì thì mạng của cả trăm người đặt trong tay tôi. Tôi cố gắng gồng mình chịu đựng mặc dù đã thấy rất đừ.
Nhưng sức của thằng "Mới nhìn thấy tàu đã say" chỉ có hạn, lúc đầu tôi còn lo làm point bằng radar xem chiến hạm có đi sai đường không. Sau hơn 1 giờ gồng mình với sóng 3, sóng 4, đầu tôi nhức, mắt tôi hoa, bụng tôi thắt lại từng hồi dồn nước chua trong dạ dày lên cổ, tôi cố nuốt nó xuống nó lại lên, lại nuốt xuống, nó lại lên! Nuốt hai ba lần rồi đến một lúc, sau một cái thắt ruột mạnh, áp suất bên trong cao quá, cổ không đủ sức để kìm lại và nuốt xuống nữa, nó phun ra thành vòi. Tôi bắt đầu ói, cú ói đầu tiên tôi biết trước và còn sức nên còn cố chạy
đến cái sô và ói vào sô, tiếp theo sau đó vì nó ra nhiều quá đâu có kịp chạy đến sô mà cũng chẳng còn biết sô ở đâu nữa, nên bạ đâu ói đó, bao nhiêu thức ăn nuốt vào hồi chiều dần dần cho ra hết. Tôi có cảm tưởng như tôi đã cho ra nhiều hơn những gì tôi đã ăn vào rồi mà sao vẫn ói. Người ta thường nói ói ra cả mật xanh, mật vàng nhưng vì trời nhá nhem tối, vả lại tôi thường chạy ra thành tàu để "cho cá ăn chè" nên tôi không biết có ói ra mật hay không. Tôi thấy rất đắng trong miệng, chắc có ói ra mật thật chứ chẳng chơi! Con tàu vẫn khi thì lắc lư, khi thì nhồi lên hụp xuống, sóng đánh vào mạn tàu nghe ầm ầm như bom nổ gần đâu đây, thân tàu oằn oại nghe răng rắc như muốn bị vặn xéo đi. Thỉnh thoảng một cơn sóng lớn đánh vào mũi tàu nghe một tiếng ầm, mũi tàu chúi xuống và một cột nước lớn đổ ào lên đài chỉ huy, lọt qua những khe hở của kính chắn trước mặt làm mọi người ướt mèm. Tôi cố đứng vững nhưng rất khó, hai tay tôi ôm chặt lấy cột của chiếc la bàn điện để giữ cho thân người không sụm xuống vì hai chân tôi gần như tê bại rồi. Toàn thân tôi lạnh ngắt mặc dù đã có áo ấm đi biển .
Mười một giờ đêm, tôi vẫn tiếp tục ói, và con tàu vẫn tiếp tục hì hục chống chọi với thiên nhiên, có lúc cả con tàu bị đưa lên thật cao rất nhanh làm tôi cảm thấy thân xác tôi nặng chịch hàng tấn thịt, hai chân run run nhún xuống dưới sức nặng "ngàn cân" của thân mình. Tôi nghĩ chắc khi đó cơ thể tôi ít nhất cũng phải chịu một sức kéo xuống tương đương với 3G (3 lần trọng lượng người tôi) chứ chẳng chơi. Tội nghiệp cho hai cái chân của tôi, chúng đã tê rồi không còn cảm giác gì cả mà vẫn phải gánh chịu cái thân hình nặng nề này! Liền sau đó con tàu rơi thỏm xuống một hố sâu, tôi sợ quá tỉnh hẳn không còn thấy u mê nữa nên đã chuẩn bị để khỏi đụng đầu vào trần, hai tay nắm lấy cột sắt của la bàn điện ghìm thật chặt, chúi người xuống và đẩy cột la bàn lên, thế mà hai chân vẫn bị nhấc bổng toòng teng trên không, ầm một
tiếng lớn, cả con tầu rung lên rần rần như thằng động kinh! Các vật dụng trên tàu tuy đã được ràng buộc chặt từ hồi chiều nhưng khi bị rung lắc mạnh vẫn tạo thành những tiếng động ngân vang trong không gian, hoà thêm với tiếng gió thổi qua các giây "cáp" ù ù nghe như tiếng gầm gừ của hai con sư tử đực đang tranh hùng. Tôi có cảm tỨưởng chiến hạm là một con vật khổng lồ đang chống chọi với cơn cuồng nộ của biển cả để cố gắng đi tới. Người ta thường ví chiến hạm với con kình ngư quả cũng không sai.
Sau khi tàu rơi xuống hố như thế, mũi tầu chúi xuống và húc vào một làn sóng lớn tiếp theo đang cuồn cuộn đi tới. Nguyên cả một lớp nước dày hơn một thước tràn lên boong tàu làm cho chiếc tàu giống như tàu ngầm chỉ thò đài chỉ huy lên trên mặt nước mà thôi. Vì tàu chúi đầu xuống, cả thân người tôi nằm dài trên cột la bàn lúc nào tôi cũng không hay, trông giống như đứa trẻ con đang nằm trên thân cây đu đưa chơi vậy.
Ôi cha mẹ ơi, sao biển đẹp và yêu quý của tôi lại có thể hành hạ tôi đến mức này ?
Tôi đã ói hết cả mật ra rồi, bây giờ không còn gì để ói nữa nên tôi ói khan. Bắt đầu bằng ruột và bao tử thắt lại, cơn nôn từ bụng dưới đưa lên và khi ra đến mồm thì chỉ là một tiếng oe. nhưng không có gì đi ra khỏi miệng cả. Những cơn nôn oe. như thế làm co thắt ruột và bao tử tôi nhiều lần, rồi tôi cảm thấy tê tê nơi bụng như có một luồng điện giựt từ cổ tới rốn. Cứ như thế, điện cứ giựt trong bụng tôi từng hồi làm thân thể tôi tê dại đi, hai tay thì như bị cả ngàn con kiến cắn hay cả ngàn cái kim châm, tê ran khắp gan bàn tay và các đầu ngón tay. Hình như điện truyền xuống cả chân tôi thì phải. Tuy thân thể tê dại nhưng đầu óc thì vẫn tỉnh táo, tôi thầm nghĩ chắc là thần kinh nội tạng của mình bị kích thích quá mức nên nó tạo ra những luồng điện như vậy, đúng là những luồng điện khá mạnh đang giựt giựt trong bụng tôi.
Tôi lo lắng tự hỏi hay là mình đã chọn lầm nghề. Say sóng dữ như thế này thì làm sao sau này quen sóng và làm sao mà chỉ huy chiến hạm ? Cỡ này nếu cứ tiếp tục đi biển thì chắc có ngày mình sẽ hui nhị tỳ mất thôi chứ sao thành hạm trưởng được! Nhưng thực tế là tôi
phải tính sao với hiện tai đây ? Tôi không thể bỏ phiên được. Trong Hải Quân, sĩ quan mà bỏ phiên đi "ca" là một tội không thể tha thứ. Tôi đã tự nhủ ngay là mình phải tự khắc phục, quyết đứng đây cho đến hết phiên, muốn ra sao thì ra, vì danh dự và vì trách nhiệm, không thể nào rời đài chỉ huy đươ.c.
Tôi thấy ông trung sĩ giám lộ cùng phiên với tôi đi biển đã lâu nên có vẻ chì sóng, tôi nói với ông ta là để ý tàu giùm vì tôi mệt lắm, không còn tỉnh táo để coi tàu được nữa. Ông ta biết tôi là sĩ quan mới toanh vừa ra lò và cũng là chuyến hải hành đầu tiên nên rất thông cảm, đã nhận lời một cách rất vui vẻ và còn khuyên tôi "Thiếu Uý cứ ngồi nghỉ đi, không có gì cần lo đâu vì tàu đang ở ngoài khơi mà". Tôi yên trí, đứng đó làm trươ?ng phiên mà như cái xác không hồn cho đến hết phiên. Mười hai giờ đêm hết phiên tôi mừng quá, và thật là hú vía, phiên đầu tiên
trong đời hải nghiệp của tôi đã qua đi một cách êm thấm. Mặc dù rất "khổ đau" nhưng không có tai nạn gì xảy ra cả. Chỉ có sĩ quan trưởng phiên mơ mơ màng màng như người lên cung trăng trong suốt phiên của mình. Khi sĩ quan trươ?ng phiên kế tiếp lên nhận phiên, tôi thấy tỉnh táo hơn được một chút, cố lết ra bàn hải đồ để bàn giao phiên lại cho Thiếu Uý Từ rồi chạy thật lẹ xuống phòng riêng.
Vào phòng, tôi để nguyên quần áo lăn đùng ra giường rồi thiếp đi đưỨơ.c một lúc nhưng vì tàu vẫn lắc và nhồi quá, thỉnh thoảng người tôi lại được nâng lên khỏi giường rồi ném xuống nệm bình bịch. Thỉnh thoảng tôi bị lăn vào phía trong đập mình vào tường, tôi phải lấy 1 cái gối chắn bên trong tường cho khỏi bị u đầu, sau đó lại lăn ra phía ngoài, nếu tôi không dùng tay ghìm chặt thành giường thì chắc chắn thế nào cũng rớt xuống sàn tàu. Thêm vào đó là những tiếng ầm ầm do sóng đập vào thành tàu cộng thêm tiếng gió rít bên ngoài nên không thể nào ngủ đươ.c.
Tôi suy nghĩ miên man và tự hỏi rằng trên thế giới này hiện có biết bao nhiêu là tàu biển đang chạy ngang chạy dọc khắp đại dương, biết bao nhiêu là thuỷ thủ đoàn đang lo cho tàu chạy, họ có sao đâu. Tại sao mà mình cực khổ nhưỨ thế này? Không lẽ trời sinh ra 2 loại
người, một loại để chuyên môn đi biển còn một loại chỉ ở bờ không bao giờ đi biển đươ.c hay sao. Hỏi rồi tôi tự trả lời: có bao giờ mình nghe nói đến chuyện đó đâu !
Chuyến công tác tham dự hành quân Vũng Rô này chấm dứt sau 5 ngày, HQ 09 đỨược trở về Saigon nghỉ bến vì chưa đến phiên đi tuần. Ngay khi về đến bến, vì lý do nhu cầu liên lạc và thông dịch gia tăng mạnh nên tôi được Phòng 3 Bộ Tư Lệnh Hải Quân gọi về để đi
làm sĩ quan liên lạc trên các chiến hạm của đệ thất hạm đội Hoa Kỳ và trong gần 2 năm sau đó tôi làm việc với Hải Quân Hoa Kỳ. Có điều đặc biệt là khi tôi đi trên chiến hạm của Hải Quân Mỹ thì tôi lại ít say sóng hơn, theo tôi nghĩ thì có lẽ một phần là do chiến hạm lớn hơn ít bị sóng lắc hay nhồi, một phần nữa có thể là do sự ăn uống những thức ăn dễ tiêu hơn, bao tử mình chứa ít thức ăn khi gặp sóng gió lớn thì không khơi mào cho sự nôn oe., sau cùng và quan trọng hơn cả là việc quen với sóng.
Về ăn uống thì tôi biết trong Hải Quân Pháp mỗi sĩ quan khi xuống chiến hạm đều đươ.c lãnh tiền ăn mà họ gọi là "traitement de table" gấp 3 hay 4 lần lương căn bản của họ khi ở trên bờ. Khi chiến hạm hải hành công tác thì tiền này còn tăng lên bằng 5 hay 6 lần tiền lương. Tôi nghĩ chắc họ không dư tiền mà cấp phát bừa bãi đâu, mục đích có lẽ là để cho người thuy? thủ có đủ phương tiện ăn những đồ ăn nhẹ mà vẫn đầy đủ chất bổ trong nhiều ngày lênh đênh ngoài biển và không ảnh hưởng đến tình trạng chiến đấu của chiến hạm.
Còn về vấn đề quen với sóng gió thì khi ở chiến hạm VN chúng ta thường đi tuần hay công tác dăm ba hôm lại ghé bến để đi chợ, để tiếp tế nhiên liệu, lấy nước ngọt hay để nghỉ, cơ thể vừa mới bắt đầu làm quen với sóng thì lại làm quen với đất liền. Cứ như thế những người có cơ thể cần phải quen với sóng như tôi không thể nào quen đươ.c. Khi tôi lên chiến hạm của Hải Quân Mỹ thì tàu chạy luôn một lèo từ 30 đến 40 ngày không vào bến. Vì thế cùng lắm là chỉ có 2, 3 ngày đầu là say sóng thôi, nếu những ngày này là những ngày đẹp trời hay ít sóng gió thì sau đó quen đi và sẽ không say sóng nữa !
Tôi còn nhớ có 1 lần tôi là sĩ quan liên lạc trên một chiếc khu trục hạm của Hải Quân Hoa Kỳ liên tục trong 35 ngày rồi. Khi chiến hạm này bị gọi trở về căn cứ Subic gấp họ không có thì giờ trả tôi vào bờ nên họ dùng cách chuyền người ngoài biển, gọi là highline, để chuyển tôi sang chiến hạm mới đến thay thế tại chỗ. Vì tôi đã ở ngoài biển hơn 1 tháng rồi nên tôi đã quen sóng. Khi chiến hạm thay thế tới, mấy hôm đầu trời nổi cơn lôi đình như có bão. Chiến hạm này là loại tàu rà mìn (MSO), chỉ lớn hơn hộ tống hạm một chút nhưng đóng bằng gỗ nhẹ hơn, nên bị quật lên nhồi xuống tôi bời. Một số nhân viên chiến hạm mới đến chưa quen sóng nên say ngất ngư, họ thấy tôi phây phây đi lại, ăn uống như thường thì phục lăn. Họ khen tôi là "Good sailor !".
Đến giờ ăn chiều bồi Phi dọn cơm lên, sĩ quan biến mất hết, chỉ còn lại hạm trươ?ng và tôi vào phòng ăn, hạm phó đang đi phiên. Hôm đó vì sóng gió lớn quá, khi đứng trong phòng ăn hai chân chúng tôi luôn luôn phải co lại và duỗi ra tùy theo phía bên chân đó thành tầu nghiêng lên hay nghiêng xuống để giữ cho người đươ.c cân bằng và thân mình được thẳng đường giây dọi. Hai chân lúc đó được xử dụng như 2 cái lò xo, co vào duỗi ra tự động theo nhịp lắc của con tàu.
Riết rồi hai chân thành thói quen như tập thể dục, đứng đâu cũng hơi co co, duỗi duỗi, nhiều khi tàu lắc ít, vì thói quen chân vẫn co nhiều !
Khi chúng tôi ngồi xuống bàn ăn rồi, đĩa xúp vừa đươ.c mang ra là phải cầm tay mà ăn, một tay cầm đĩa, một tay cầm muỗng mà múc để có thể nghiêng đĩa ngược chiều lắc của con tàu, tránh cho nước xúp khỏi đổ ra ngoài. Khi đĩa thức ăn chính đã đươ.c bồi dọn ra bàn rồi một tay cũng phải cầm đĩa để giữ cho đĩa khỏi chạy đi theo chiều nghiêng của tàu.
Trong những ngày sóng gió như thế, thường chỉ có tôi và hạm trươ?ng ăn với nhau trong phòng ăn mà thôi, hoa. hoằn mới thấy mặt hạm phó, có lẽ ông này "anti" với hạm trưởng thì phải. Sau chừng 1 tuần như vậy, hạm trưởng tàu này phục tôi quá, muốn tôn tôi làm sư phụ
vì ông ta chịu muốn hết nổi, mặt mũi xanh lè. Còn tôi thì bất cứ khi nào ông lò dò lên đài chỉ huy đều thấy tôi, vào phòng ăn cũng thấy tôi, nhìn ra boong tàu cũng thấy tôi vì tôi luôn luôn muốn đi ra ngoài cho nó thoáng chứ ở trong phòng chật chội bức mắt. Mỗi lần gặp tôi ông đều lắc đầu than van "very disappointed, very disappointed to patrol like this!". Vì biển động quá, không có ghe để xét, đôi khi có 1 vài chiếc chiến hạm cũng không dám hạ "youyou" xuống biển vì sợ bị sóng đánh chìm. Tàu chỉ chạy gần ghe và dùng ống nhòm quan sát kỹ xem có gì khả nghi hay không rồi ghi số ghe để gửi công điện báo cáo mà thôi, xong lại ai đi đường nấy.
Riêng tôi vì không có việc gì làm, giống như thằng đi "cruise" trên du thuyền, suốt ngày đọc báo, ăn, đi rong quanh tàu , xong lại ăn, đọc báo, đi quanh tàu ! Hạm trươ?ng thì có lẽ vì thấy tôi là một trong một số ít người hoạt động trên tàu những khi biển động vả lại trong những bữa ăn tôi hay ăn cùng và nói chuyện với ông nên ông không muốn tôi đi. Khi tôi đi rồi, chắc ông buồn lắm nên ông khuyên tôi ở lại tàu thêm một thời gian nữa mặc dù tôi đã đến thời hạn về bờ từ lâu rồi. Ông hỏi tôi là nếu tôi bằng lòng ông sẽ đánh công điện xin giữ tôi lại. Còn tôi thì vì
trước khi đi chuyến công tác đó đã đánh phé với bọn sĩ quan trực phòng hành quân ở Vũng Tàu và tụi nó đã "rửa" tôi rất sạch sẽ. Nguyên hai tháng lương của tôi đã đươ.c tụi nó " ký lệnh thuyên chuyển" sang túi của chúng nó hết rồi. Bây giờ về bến tôi cũng không có tiền để mà vung vít nên tôi ra cái điều tử tế, ngần ngừ một chút rồi làm như chiều lòng hạm trưởng, tôi trả lời ông là tôi OK.
Thực ra tôi cũng muốn ở lại tàu với mục đích "thâm sâu" là để dành tiền vì tiền ăn của tôi trên chiến hạm là do Hải Quân Hoa Kỳ đài thọ, tôi không phải trả và cũng không phải tiêu gì hết. Khi về bến lương của tôi còn nguyên, lại tha hồ mà xì phé vung vít! Hạm trươ?ng đâu hiểu nổi thâm ý đó nên rất hài lòng vội đánh công điện xin giữ tôi ở lại thêm ba tuần, còn thằng cha hạm phó thì nói thẳng với tôi: "Hạm trưởng thích mày hơn tao, ông ấy muốn giữ mày chứ đâu muốn giữ tao!".
Chuyến này tôi đã đi công tác luôn một lèo 55 ngày liên tục trên biển động của mùa gió bấc. Khi bị bắt buộc phải trả tôi vào bờ theo lệnh của phòng hành quân Vùng 3 Duyên Hải, mặt hạm trỨưởng buồn thiu. Tôi từ giã ông ta như từ giã một người bạn chí thân phải xa nhau và biết là sẽ không bao giờ gặp lại nhau nữa. Chiến hạm neo ngoài khơi, ghe hải thuyền đưa tôi vào bờ. Khi bưỨớc chân từ ghe lên đất liền, mới đi được hai bước thì tôi lao đao như thằng say rượu muốn té. Trời đất quỷ thần ơi, mặt đất gì mà kỳ cục quá, nó đứng yên chứ không dập dình lên xuống như sàn tàu của tôi, báo hại tôi phải đứng lại làm "một phút mặc niệm" để điều chỉnh tình trạng cân bằng nếu không muốn té. Thực sự tôi đã say, tôi say . . . . đất đấy quý vị ạ!
Từ đó tôi mới tìm ra câu trả lời cho chính tôi là thế giới này không có hai loại người đi biển, mà chỉ có một mà thôi. Đi biển đươ.c hay không là do vấn đề quen sóng, khi đã quen rồi thì ai cũng chì sóng cả. Một thằng "mới nhìn thấy tàu đã say" như tôi mà cũng có thể trở nên anh hùng chì sóng thì ai cũng chì sóng được hết! Đồng thời tôi cũng hiểu được tại sao có những ông thuyền trươ?ng già suốt đời đi tàu một cách vui thú, không hề buồn phiền chán nản, không muốn đổi nghề và nhiều khi tàu neo, ông vẫn thích ở lại với tàu của ông hơn là đi ra ngoài phố.
Bùi Tiến Hoàn, Canada
Khoá Đệ Nhị Dương Cưu, Trường SQHQ/NT.















__._,_.___
Reply via web post Reply to sender Reply to group


.

__,_._,_

No comments:

Post a Comment