My Blog List

Friday, September 6, 2013

Đặng Dung - vị danh tướng thời Hậu Trần, tác giả bài “Cảm Hoài” nổi tiếng.

-

-
Đặng Dung là vị danh tướng thời Hậu Trần, và là tác giả bài thơ Cảm hoài nổi tiếng suốt mấy trăm năm mà bất cứ một người Việt Nam nào có học vấn cũng đều thuộc nằm lòng từ những năm còn trẻ.
Đặng Dung - vị danh tướng thời Hậu Trần, tác giả bài "Cảm Hoài" nổi tiếng.
 
Viết về họ Đặng, ta cần nhắc đến Đặng Dung, người anh hùng lẫm liệt hy sinh vì nước, nhà thơ lỗi lạc còn để lại bài thơ "Cảm hoài" kiệt tác.

Đặng Dung là vị danh tướng thời Hậu Trần, và là tác giả bài thơ Cảm hoài nổi tiếng suốt mấy trăm năm mà bất cứ một người Việt Nam nào có học vấn cũng đều thuộc nằm lòng từ những năm còn trẻ.
 
Ông quê ở huyện Thiên Lộc, trấn Nghệ An (nay là huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh).

Đặng Dung là con của Đặng Tất. Đặng Tất là một tướng tài, đã khôi phục lại đất nước tới vùng Ninh Bình.
 

Anh hùng dân tộc, nhà thơ lớn Đặng Dung
 
Dưới triều nhà Hồ, Đặng Dung giúp cha cai quản đất Thuận Hóa. Sau khi quân Minh từ Trung Quốc đến chiếm đóng nước Việt (khi ấy có quốc hiệu là Đại Ngu), nhà Hồ sụp đổ, Đặng Dung cùng cha tham gia cuộc khởi nghĩa của Trần Ngỗi, tức Giản Định Đế.
 
Năm 1409, sau trận đại chiến ở Bô Cô (xã Hiếu Cổ, huyện Ý Yên, thuộc tỉnh Nam Định ngày nay); vì nghe lời gièm pha của bọn hoạn quan là Nguyễn Quỹ, nói rằng Đặng Tất chuyên quyền, Giản Định Đế đem lòng ngờ vực, giết Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân.
 
Đặng Dung tức giận bỏ Trần Ngỗi, cùng Nguyễn Cảnh Dị (con Nguyễn Cảnh Chân) rước Trần Quý Khoáng từ Thanh Hóa về đất Chi La (nay là huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh), tôn lên ngôi vua (tức Trùng Quang Đế), và ông được giữ chức Đồng bình chương sự.
 
Về sau, do nhu cầu cần phải hợp nhất hai lực lượng, các tướng của Trần Quý Khoáng do Nguyễn Súy cầm đầu đã tổ chức đánh úp vào Ngự Thiên, đem Trần Ngỗi về Chi La tôn làm Thượng hoàng.

Dù phải chiến đấu dưới quyền người đã giết cha mình, nhưng vì sự nghiệp chung, ông đã "vượt lên trên tất cả, trước sau vẫn giữ vững phẩm cách đường đường của một vị tướng" (Nguyễn Khắc Thuần).
 
Từ đó ông trải qua rất nhiều trận giao chiến, nổi bật hơn cả là trận đánh vào tháng 9 năm Quý Tỵ (1413) ở khu vực Thái Gia (theo Minh Sử của Trương Đĩnh Ngọc thì trận đánh này xảy ra tại Ái Tử, nay thuộc huyện Triệu Phong, Quảng Trị. Dẫn lại theo Nguyễn Khắc Thuần).
 
Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên chép:
 
"Đang khi đôi bên quân nam và quân bắc đang cầm cự nhau thì Đặng Dung bí mật dùng bộ binh và tượng binh mai phục, đúng nửa đêm thì bất ngờ đánh úp vào doanh trại của (Trương) Phụ. (Đặng) Dung đã nhảy lên thuyền của (Trương) Phụ và định bắt sống (Trương) Phụ nhưng lại không biết mặt để có thể nhận ra hắn, vì thế, (Trương) Phụ liền nhảy sang thuyền nhỏ chạy thoát. Quân Minh bị tan vỡ đến quá nữa, thuyền bè, khí giới bị đốt phá gần hết, thế mà (Nguyễn) Súy không biết hợp lực để cùng đánh. (Trương) Phụ biết quân của (Đặng) Dung ít nên lập tức quay lại đánh. (Đặng) dung đành phải chịu thất bại, quân sĩ chạy tan tác hết." (theo Đại Việt sử ký toàn thư,Bản kỷ toàn thư, quyển 9, tờ 22-b). 

Khâm Định Việt sử thông giám cương mục chép tương tự và hạ bút viết lời tiếc rẻ: ''Trời nuông tha Trương Phụ!'' (Chính biên, quyển 12, tờ 39).
 
Sử gia Trần Trọng Kim chép:
 
"Từ khi thua trận ấy rồi, Trần Quý Khoáng thế yếu quá không thể chống với quân giặc được nữa, phải vào ẩn núp ở trong rừng núi. Chẳng được bao lâu Trần Quý Khoáng, Nguyễn Cảnh Dị, Đặng Dung, Nguyễn Súy đều bị bắt, và phải giải về Yên Kinh cả. Đi đến giữa đường, Quý Khoách nhảy xuống biển tự tử, bọn ông Đặng Dung cũng tử tiết cả. Ông Đặng Dung có làm bài thơ Cảm hoài, mà ngày nay còn có nhiều người vẫn truyền tụng. 
 
Cha con ông Đặng Dung đều hết lòng giúp nước phò vua, tuy không thành công được, nhưng cái lòng trung liệt của nhà họ Đặng cũng đủ làm cho người đời sau tưởng nhớ đến, bởi vậy hiện nay còn có đền thờ ở huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh..." (Việt Nam sử lượcTrần Trọng Kim).
 
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch/ Kỷ độ Long Tuyền đới nguyệt ma! (Đầu bạc giang san thù chửa trả/ Long Tuyền mấy độ bóng trăng soi!)
 
Để lại cho đời bài thơ Cảm hoài
 
Với bài thơ Cảm hoài, tên tuổi của Đặng Dung đã có chỗ đứng trong lịch sử văn học và trong lòng người đời sau.
 
Cảm hoài là bài thơ tự sự của Đặng Dung khi ông đem quân giúp Trùng Quang Đế. Bài thơ thể hiện ý chí sắt đá của một người anh hùng nhưng không may là không gặp thời thế, công việc chưa xong thì tuổi đã già.
 
Bài Cảm hoài viết bằng chữ Hán theo thể thất ngôn bát cú.

Nguyên tác:
 
 
Phiên âm Hán - Việt:
 
Cảm hoài

Thế sự du du nại lão hà?
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca.
Thời lai đồ điếu thành công dị,
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa.
Trí chủ hữu hoài phù địa trục,
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà.
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch,
Kỷ độ Long Tuyền đới nguyệt ma.


(Hoàng Việt Thi tuyển - Bùi Huy Bích).
 
Dịch nghĩa:
 
Việc đời dằng dặc mà ta đã già, biết làm thế nào?
Trời đất mênh mông đắm trong cuộc rượu hát ca.
Khi gặp thời, người làm nghề hàng thịt, kẻ câu cá cũng dễ thành công,
Lúc lỡ vận, bậc anh hùng đành phải nuốt hận nhiều.
Giúp chúa, những mong xoay trục đất lại,
Rửa vũ khí không có lối kéo tuột sông Ngân xuống.
Thù nước chưa trả được mà mái tóc đã bạc sớm,
Bao phen mang gươm báu mài dưới bóng trăng.
 
Bản dịch của Tản Đà:
 
Việc đời man mác, tuổi già thôi!
Đất rộng trời cao chén ngậm ngùi.
Gặp gỡ thời cơ may những kẻ,
Tan tành sự thế luống cay ai!
Phò vua bụng những mong xoay đất,
Gột giáp sông kia khó vạch trời!
Đầu bạc giang san thù chửa trả,
Long Tuyền mấy độ bóng trăng soi.

Do mỗi bản dịch chỉ thành công ở một số chỗ, nhưng lại không diễn đạt được cái hay ở những chỗ khác trong nguyên tác, do đó, ngoài bản dịch của Tản Đà, chúng tôi muốn giới thiệu thêm vài bản dịch khác, cũng là của các bậc danh nho, tài tử thuở trước.
 
Bản dịch của Phan Kế Bính:
 
Việc đời bối rối tuổi già vay,
Trời đất vô cùng một cuộc say.

Bần tiện gặp thời lên cũng dễ,
Anh hùng lỡ bước ngẫm càng cay!
Vai khiêng trái đất mong phò chúa,
Giáp gột sông trời khó vạch mây!
Thù trả chưa xong đầu đã bạc,
Gươm mài bóng nguyệt biết bao rày
.
 
Bản dịch của Phan Võ:
 
Việc thế lôi thôi tuổi tác này,
Mênh mông trời đất hát và say.
Gặp thời đồ điếu thừa nên việc,
Lỡ vận anh hùng luống nuốt caỵ!
Giúp chúa những lăm giằng cốt đất,
Rửa đòng không thể vén sông mây.
Quốc thù chưa trả già sao vội,
Dưới nguyệt mài gươm đã bấy chầy!
 
Những bài thơ sáng tác vào thời Trần thường thể hiện sự khẳng định nhân phẩm và niềm tự hào về bản lĩnh con người. Và, ngay cả trong cái buồn của thơ ca cuối thế kỷ thứ 14, vẫn còn phảng phất dư ba hào khí Đông A [theo lối chiết tự, chữ Trần còn có thể đọc là Đông A , vì được ghép từ hai chữ Đông và ].
 
Và Cảm hoài, bài thơ duy nhất còn lại của Đặng Dung, được chép trong Toàn Việt thi lục của Lê Quý Đôn (1726 - 1784) chính là một trong những bài thơ hay nhất và tiêu biểu nhất cho phong cách thơ ấy.
 
Theo Từ điển văn học (bộ mới), Cảm hoài được đánh giá: Tuy là thơ của một người... ôm hận vì bất lực trước thời thế, "người đọc vẫn thấy toát lên ở đây tình cảm cao cả tràn khắp đất trời, đó là lòng yêu nước thiết tha của một tráng sĩ vì nước bôn ba, là niềm tin và quyết tâm bảo vệ nền độc lập dân tộc qua hình tượng rất đẹp, rất thơ: "Mấy phen mang gươm Long Tuyền mài dưới trăng".
 
Cảm hoài ra đời vào những ngày cuối cùng của nhà Trần, nhưng vẫn mang trọn hào khí dân tộc của những năm đầu dựng nước và giữ nước cả về nội dung lẫn hình thức. Lý Tử Tấn, một danh sĩ thời Lê, nhận xét:"Phi hào kiệt chi sĩ bất năng!" (Nếu không phải là kẻ sĩ hào kiệt thì không thể làm nổi bài thơ này!)
 
Tên tuổi của Đặng Dung hiện còn lưu lại trên một phố quá nhỏ ở Hà Nội bắt đầu từ phố Phan Đình Phùng, cắt ngang phố Quán Thánh, Nguyễn Trường Tộ đến phố Trấn Vũ (giáp Hồ Trúc Bạch), dài 300 m, thuộc quận Ba Đình. Thời Pháp thuộc đây là phố Đi-ơ-lơ-phít (Rue Dieulefils) và đường 94 (Voie 94). Sau 1945, đổi là Đặng Dung.
 
Phố Đặng Dung được xây dựng trên nền đất thôn Châu Long (giữa thế kỷ XIX đổi là Châu Yên), tổng Yên Thành, huyện Vĩnh Thuận xưa.
Tác giả bài viết: Hàn Mai

No comments:

Post a Comment