My Blog List

Monday, March 17, 2014

Roi bo cao nguyen

 tiếp theo bài 3,4...)
   Sáng hôm sau, Tiểu Đòan Trưởng ra lệnh:
- Đại Đội 4 hôm qua giữ hậu, hôm nay đi đầu.
  Đại Đội 4 cùng một Chi Đội M113 xuất phát đi đầu. Tất cả Đại Đội đều lên Thiết Vận Xa.Tôi cùng xe với Thiếu Úy Chi Đội Trưởng. Đơn vị từ từ tiến. Thỉnh thỏang đại liên của M113 bắn vào những vị trí nghi ngờ. Bổng một người lính chỉ vào một bụi cây la:
- Có hầm kia kìa !
Tôi nhìn kỷ thì có một cái hầm có nấp che bên trên, nhưng cửa hầm để tác chiến lại hướng ra phía đường lộ. M113 dừng lại, lính của tôi nhảy xuống tiến đến vây quanh hầm với khỏang cách khỏang 4-5 thước và để trống phía cửa hầm. Đợi một lát không thấy động tỉnh gì.Một người lính nhảy lên nốc hầm, chỉa súng vào miệng hầm ra lệnh:
- Các anh hảy đầu hàng !
 Vẫn im lặng. Người lính la lớn ra lệnh lần nữa. Thình lình một tiếng nổ "bụp", nấp hầm  nhô lên và hụp xuống. Người lính nhảy ra và la:
- Nó nổ lựu đạn tự sát rồi!
  Khói và mùi thuốc nổ bốc lên. Đúng là chúng đã tự sát bằng lựu đạn. Vài người lính phá bung miệng hầm rộng ra cho khói thóat. Một anh chui xuống hầm.
Một lát sau trèo lên và báo:
- Có ba thằng: một thằng mặt đồ nâu đeo lon thiếu úy, hai thằng mặc quần áo màu ô liu. Rất nhiều tờ tiền 500 đồng Con cọp của mình còn mới, bị chúng xé nát ra hết, mấy xấp vải nâu bị mảnh lựu đạn làm rách hết, hai khẩu AK. một khẩu B40. một K54, bị lựu đạn nổ làm cho sức mẻ một ít. Mình có thu làm chiến lợi phẩm hôn Alfa ?
- Hôm qua tới nay không rảnh để làm chuyện đó. Thôi lấy đem bỏ vào M113 cũng được. Xác thì để dưới hầm, một lát M113 cán đè nấp hầm chôn luôn.
  Tôi thầm nghĩ, tên sĩ quan Cộng Sản này cũng là một người có khí tiết. Những con cua sắt cỏng chúng tôi trên lưng tiếp tục tiến tới. Vài cái hầm nữa bị chúng tôi phát hiện,có hầm thì bị lính của tôi đánh lựu đạn, có hầm thì chúng đã bỏ đi tự khi nào. Tôi vẫn không hiểu, mới sáng sớm hôm qua, trước đơn vị của chúng tôi vài tiếng, một Tiểu Đòan Địa Phương Quân đã bị xóa sổ, thế mà sau một ngày bị đánh tập hậu bất ngờ, Việt Cộng lại mất hết sức chiến đấu. Đêm Tiểu Đòan dừng quân giửa làng vẫn không bị chúng tập kích hay quấy rối. Sáng nay Đại Đội 4 đi đầu cũng không gặp sự kháng cự nào. Chỉ còn một ít hầm hố là có tổ tam tam của chúng.
  Đại Đội vẫn cùng M113 tiến tới. Đến sát một bờ tre, thình thình một người lính trên xe của tôi la lớn:
- Có hầm của Việt Cộng !
 Và nhanh tay tung một quả lưu đạn. Nhưng cái hầm lại nằm dưới gốc của bụi tre. Lựu đạn vướng vào bụi tre ở trên lưng chừng. Một tiếng " ầm " , trên xe của tôi bị thương gần hết. Mấy người lính ngồi quanh tôi đều dính miểng. Người bị ở cánh tay, người bị chân, người bị ngực…. Tôi đứng cạnh viên Thiếu Úy ngồi ở ghế xạ thủ đại liên. Tôi nhìn thấy máu tươm ướt tay áo của viên Thiếu Úy.
- Thiếu Úy bị thương rồi ! Tôi nói.
- Trúng bả vai không sao đâu Trung Úy. Trung Úy có sao không ?
Tôi nhìn lại tôi từ đầu cho tới chân, không bị vết nào.
- Ông đứng mà không bị là hên lắm đó.
Tôi cho các anh em bị thương vào trong xe để băng bó vết thương. May mà không có người nào bị nặng. Tôi mắng người lính:
- Mày ngu vừa thôi. Tre như vậy mà quăng lựu đạn cho được. Nó sẽ vướng vào tre chứ làm sao rớt xuống đất được.
- Sát hầm quá em sợ nó bắn mình nên không kịp nghĩ.
-  Lần sao nhớ để ý một chút.
  Bây giờ tôi mới nhìn kỷ thì thấy trong gốc bụi tre có một cái hầm cách đầu chiếc M113 của tôi đứng chỉ chừng hơn một mét. Lục sóat nhưng chỉ là cái hầm không. Bụi tre này là đầu của một bờ tre chắn ngang trước mặt chúng tôi. Bờ tre dài gần một trăm mét. Chi Đội M113 dàn thành hàng ngang dọc theo và núp sát vào bờ tre. Bên kia bờ tre là một khỏang ruộng trống. Cuối khỏang ruộng trống là một cái trường học nằm dài trên một cái gò đất cao đối diện với bờ tre trước mặt chúng tôi Thình lình những tiếng " Bùng…bùng…" vang lên và tiếp theo là những tiếng nổ "bụp…bụp…"  tỏa khói trắng dọc theo bờ tre trước mủi của những chiếc M113.
- Nó bắn mình bằng súng phòng không 40 ly đó ! Một anh lính thiết giáp la lên.
  Tôi nhìn kỷ ở gốc trái của trường học có một cái ụ phòng không. Thì ra Việt Cộng sợ có máy bay yểm trợ khi bị quân đội của ta đánh chốt Củng Sơn này, nên có cả phòng không. Hầm hố đều có nắp để tránh pháo. Quả nhiên bọn chúng quyết chặn đứng và tiêu diệt quân ta ở đây không cho lọt về Tuy Hòa. Chúng nó thấyThiết Vận Xa nằm hàng ngang theo bờ tre chuẩn bị tiến lên, nên nó dùng  súng phòng không 40 ly để bắn.Tất nhiên là M113 không dám tiến lên, mà còn de lui xa bờ tre một chút để tránh đạn.
  Tôi hỏi viên Thiếu Úy chỉ huy:
- Như vậy các anh không tiến lên được sao ?
- Tụi tôi qua khỏi bờ tre ra đồng trống này thì nó bắn chịu không thấu đâu Trung Úy. Vì đó là lọai súng bắn máy bay đó. Trung Úy dùng anh em BĐQ đánh nó, tụi tui nằm ở bờ tre này dùng Đại Liên 50 yểm trợ cho Trung Úy.
- Alfa ! 45 gặp Alfa ! Tiếng của âm thọai viên máy Tiểu Đòan báo.
- Súng gì nó bắn vậy mậy ?
- Phòng không 40 ly 45 !
- Nhổ nó được không ?
- Dạ được 45 !
- Cẩn thận nghe mậy !
- Rỏ 45 !
  Tự nhiên tôi thèm một điếu thuốc, nhưng từ ngày rời Kontum  thầy trò chỉ hút thuốc Lào do đệ tử thủ sẳn để dành trong thùng đạn đại lien. Thấy tôi đăm chiêu, đệ tử nhìn ông thầy biết ý, bèn đem ra một cái bình hút làm bằng chai đựng dầu chùi súng và " têm " sẳn một " bi ".
- Ông thầy " bắn " một "bi" cho tỉnh táo đi ông thầy!
Kéo xong một hơi thuốc Lào, tôi đứng quan sát địa thế. Bên phải của tôi cũng là một bờ tre nối với bờ tre trước mặt làm thành một góc vuông. Bờ tre này chạy thẳng về phía góc phải trường học. Bên trái tôi là một cái xóm với  cây cối cao dày, chỉ thấy vài cái nóc nhà thấp thóang. Cái xóm này cũng chạy lên đến chân gò, rất gần với ổ phòng không của chúng. Với địa thế như vậy chỉ một cây phòng không 40ly nằm ở góc trái trường học trên cao, chỉ một tổ Việt Cộng  cũng có thể quan sát và khống chế hết khu vực. Ngòai ra không biết quân số của chúng nhiều ít? Còn có lọai vũ khí gì nữa không? Mình đánh chúng bằng cách nào mà không bị thương vong?... Trong đầu tôi nảy ra bao nhiêu câu hỏi chưa có lời giải đáp. Suy nghĩ một lát, chợt trong đầu tôi nảy một ý: mình theo bài của ông thầy thôi.
  Tôi bèn gọi Tiểu Đội CB của tôi và hỏi:
- Bây giờ tao cần 5 đứa. Đứa nào xung phong ?
Cả Tiểu Đội đều đưa tay.
- Tao cần 5 đứa thôi.
Tôi lựa lấy 5 đứa lanh lợi nhất, giao một đứa là binh nhất chỉ huy và giao cái PRC 25 của Trung Đội. Tăng cường thêm lựu đạn. Tôi ra lệnh:
- Năm đứa đi vào xóm, im lặng vô tuyến và tuyệt đối giữ im lặng, không gây tiếng động. Nếu thấy chốt của Việt Cộng trong xóm thì né đi và đừng để chúng phát giác, âm thầm len lỏi tiến gần cái ụ có súng phòng không của chúng. Khi đến bìa xóm gần dến cái ụ súng thì bấm ống liên hợp hai cái. Trước khi xung phong thì bấm ba cái. Mấy đứa rỏ chưa ?
- Rỏ 5 Alfa !
- Tất cả chuẩn bị. Khi có lệnh thì xuất phát.
 Tôi lại gọi Trung Đội 3 nằm ở cuối bờ tre trước mặt và giáp vuông góc với bờ tre bên phải.
- Anh cho Trung Đội ôm sát bờ tre bên phải tiến về phía trường học. Đi chậm thưa ra và phải khom thấp người để tránh đạn của chúng. Không bắn trả. Nhớ phải thật cẩn thận.
  Tôi lệnh cho Trung Đội 2 giản đội hình đi theo thằng 3. Trung Đội 1 chia quân thế chổ thằng 2 và thằng 3.Tôi quay sang viên Thiếu Úy Chi Đội Trưởng:
- Thiếu Úy cho M113 thay phiên nhau, mỗi lần vài chiếc, bắn cầm chừng về hướng ổ súng của chúng bên góc trái trường học.
  Khi tất cả đã sẳn sàng, tôi ra lệnh xuất phát. Tóan 5 đứa luồn nhanh vào xóm. Đại liên 50 của M113 bắt đầu nhả đạn về hướng Việt Cộng. Trung đội 3 bắt đầu di chuyển. Chưa đầy một phút, nghe một tiếng súng trường,Trung Đội 3 báo:
- Bị rớt một con rồi Alfa.
- Sao vậy ?
- Thằng đi đầu vừa qua góc bờ tre nhỏm người hơi cao thì bị bắn.
- Đã bảo phải thật cẩn thận sao để mới di chuyển đã bị rồi. Có nặng không ?
- Trúng ở hàm hạ.
- Cho nó vào xe và băng bó vết thương đi.
Việt Cộng thấy bóng dáng lính BĐQ núp theo bờ tre di chuyển hướng vế phía trường học. Đại Liên 50 của M113 thì bắn chúng. Chúng nghĩ M13 yểm trợ cho BĐQ tiến lên đánh chiếm trường học, bèn hướng hỏa lực về bờ tre hai trung Đội đang di chuyển.
  Tôi lại ra lệnh cho Trung Đội 3 và 2 làm như bị hỏa lực của chúng nên tiến thật chậm. Tôi nghe tiếng súng của chúng, ngòai cây phòng không hình như chì có AK và CKC. Không lẻ chúng chỉ có vài thằng! Thời gian chầm chậm trôi qua. Gần nửa giờ thì bổng nghe ống liên hợp của PRC25 "khẹt! khẹt" hai tiếng. Tôi  nói với Thiếu Úy Chi Đội Trưởng:
- Anh cho M113 ngưng tác xạ đi. Mấy đứa nó chuẩn bị xung phong đó.
 M113 ngưng bắn. Tiếp theo thì ống liên hợp" khẹt! khẹt! khẹt" ba tiếng. Tức thì nghe tiếng hô xung phong của 5 anh chàng lẻn trong xóm. Một lọat M16 nửa chừng ngưng bặt. Ngưng một chút tiếng lựu đạn nổ vang. Một thằng Việt Cộng bỏ chạy lên góc trường học.  Đại liên 50 đồng lọat bắn theo. Anh ta chạy zít zắc, té, đứng dậy chạy tiếp dần mất dạng sau gò. Tôi ra hiệu M113 ngưng bắn. Tiếng trưởng tóan 5 người báo cáo qua máy:
- Alfa, đã chiếm được mục tiêu. Ba thằng chết tại chỗ, một thằng chạy thóat. Lấy được 1 AK, 1CKC, 1 K54. Còn cây súng gì mà có hai bánh xe to, nặng quá tụi em rinh không nổi.
- Được rồi để M113 lên chở.
  Sau khi  Đại Đội lên lấy súng đem vào trong  lòng M113, tôi hỏi 5 đứa:
- Sao bắn một lọat M16 nửa chừng thì ngưng ngang vậy ?
  Anh trưởng tóan trả lời:
- Súng bị kẹt đạn Alfa. Cây M79 cũng bắn không được. Nên bị ngưng ngang. May mà mấy thằng Vẹm không trở tay kịp. Tụi em liền quăng lựu đạn.
- Tao dặn hòai là khi dừng quân nghỉ là phải chùi súng, mà tụi bây không nghe. M16 dính bụi là dể bị kẹt đạn. Có ngày chết vì kẹt đạn thì đừng nói là tao không nói trước. Lấy công chuộc tội, kỳ này tao tha.
  Tôi báo lại với Tiểu Đòan, Thiếu Tá Trân ra lệnh Đại Đội tiến thẳng ra đường. Ra đến lộ thì Tiểu Đòan đã ra rồi. Súng ống lấy được thì dựng thành một đống cùng với cây 40 ly ở giửa lộ. Thầy trò bèn lột quần áo, cởi súng đạn đùng xuống kinh ở cạnh đường tắm  thỏa thích sau mấy ngày bụi bặm. Dòng kinh nước trong veo mát rượi. Lúc này gần giửa trưa. Đang lội ở dưới kinh bổng nghe tiếng máy bay trực thăng to dần và hạ thấp xuống. Thiếu Tá Trân nói:
- Mặt trời xuống đó.
   Thầy trò tụi tôi tỉnh bơ cứ lội ở dưới kinh. Trực thăng hạ xuống giửa lộ. Tiểu Đòan Trưởng đến trình diện ChuẩnTướng Tất và chắc là báo cáo tình hình. Tôi đang lội bì bỏm dưới kinh, bổng nghe tiếng Chuẩn Tướng Tất hỏi:
- Súng đó ai lấy được vậy ?
-  Dạ, Đại Đội 4  lấy được Chuẩn Tướng.
- Đại Đội Trưởng đâu ?
  Thiếu Tá Trân chỉ tôi và nói:
- Cái thằng đang lội dưới kinh đó Chuẩn Tướng.
Và kêu tôi lên trình diện. Tôi vội leo lên bờ mặc lại quân phục đến trình diện. Ông nói:
- Anh khá lắm. Lấy cây súng ấy ở đâu ?
- Dạ, Đại Đội lấy ở cái chốt sau cùng cạnh trường học trên một cái gò đất.
Rồi ông quay sang sĩ quan tùy viên nói:
- Lấy họ tên và số quân anh ấy.
  Rồi  cùng Thiếu Tá Trân vừa đi vừa nói chuyện. Tôi đi lại cạnh bờ kinh kêu anh em  binh sĩ lên bờ, nhìn lại thì trực thăng chở MặtTrời đã cất cánh. Cả mớ súng chiến lợi phẩm cũng bay theo. Tiểu Đòan đã chỉnh tề hàng ngũ, Tiểu Đòan Trưởng ra lệnh:
- Đại Đội 4 quay lại gần cái cầu giữ an ninh cây cầu cho đòan đi tản.
  Đến gần cây cầu, bên trái đường là một cái xóm nhiều cây cối, cách đường lộ hai ba thửa ruộng trống. Tôi cho đóng quân ở bìa cái xóm dọc theo đường. Gọi Thiếu Úy N, Đại Đội Phó, thì nghe tiếng anh rất nhỏ.
- Bravo dẫn thằng 3 ra phía sau của tôi giữ mặt hậu.
  Một lát tôi gọi lại vẫn nghe tiếng nói của anh nhỏ. Tôi lớn tiếng:
- Anh đang núp ở đâu mà tiếng nói anh không rỏ vậy. Tôi bảo anh đem thằng 3 giữ phía sau tôi anh có nghe không ?
- Dạ rỏ Alfa.
- Một lát tôi xem lại nếu không làm đúng thì anh biết tôi.
- Nhận rỏ Alfa.
 Tôi đã nghe tiếng anh lớn và rỏ hơn. Bố trí quân xong thì đòan di tản bắt đầu qua cầu. Chắc vì đường nhựa tốt nên thấy đủ lọai xe chạy qua, chưa thấy người đi bộ. Lúc ấy thì Việt Cộng từ trong sâu phía sau lưng tôi bắn pháo ra để chặn đòan di tản. Nhưng đạn không tới đường mà lại rớt vào vị trí của Đại Đội tôi. Thấy Pháo Việt Cộng bắn ra, lính trên các lọai xe chạy trên đường bắt đầu bắn vào xóm , tức rải đạn vào vị trí đóng quân của Đại Đội 4. Thôi thì đủ lọai súng lớn nhỏ: đại liên M60, M16, M79… nhất là mấy cái xe zeep gắn đại liên 6 nòng xoay tròn khi bắn. Tất cả đạn đều đổ xuống đầu Đại Đội 4. Trong khi ấy thì pháo Việt Cộng cũng rớt vào đội hình của Đại Đội, làm thầy trò bò hỏa lực sát đất không dám ngóc đầu lên. Đạn bay rào rào chiu chíu sát đầu, cành lá rơi lả tả. Tự nhiên Đại Đội 4 bị " lưởng đầu thọ địch ". Nếu tình trạng này kéo dài, thầy trò sẽ được lên đài " Tổ Quốc Ghi Ơn ".
  Tôi liên lạc báo tình hình với Tiểu Đòan. Tiếng của Thiếu Tá Trịnh Trân nghe sao nhỏ quá, mặc dù tui biết khỏang cách từ đây đến Tiểu Đòan khá xa, nhưng không thể nhỏ như vậy. Tôi thầm nghĩ: không lẻ Tiểu Đòan đi về Tuy Hòa. Tôi gọi Tiểu Đòan lần nữa và nói với Thiếu Tá Trân:
- Sao tôi nghe tiếng của 45 nhỏ dần vậy, hay Tiểu Đòan di chuyển ?
  Thiếu Tá Trân như hiểu tôi sợ Tiểu Đòan bỏ tôi ở lại nên nói:
- Tao di chuyển xa hơn, nhưng tao đợi , không bỏ mày lại đâu mà sợ.
  Nghe vậy tôi mới yên tâm. Một người lính bò lại gần tôi và nói:
- Alfa, nếu để tình trạng này, chắc một lát thầy trò mình không chết vì pháo của Việt Cộng thì cũng bị chết vì đạn của lính mình. Làm sao bây giờ Alfa?
  Tôi vừa suy nghĩ vừa nói:
- Đây là lính chạy làng, đâu phải là lính của một đơn vị có máy truyền tin để mình liên lạc. Làm sao cho có người trên mấy cái xe đó biết có lính mình trong này, rồi truyền miệng với nhau mới được.
  Tôi bèn ra lệnh:
- Đứa nào bò tìm một cái cây dài đem lại đây.
  Một lúc sau thì một người lính bò lại mang theo một cây trúc dài khỏan hơn hai thước. Tôi nói:
- Bây giờ lấy một cái cây ngắn cột chữ thập gần ngọn cây trúc. Xong khóat một cái áo của lính mình. Trên đầu cây trúc đội một cái nón sắt. Làm giống như hình nộm mà nông dân đuổi chim ở ruộng . Cầm cái cây có hình nộm này, một đứa bò ra giửa ruộng chỗ trống, dựng lên và đưa qua đưa lại cho đòan xe trên lộ nhìn thấy. Chỉ cần một hai người thấy là họ sẽ tự động truyền miệng nhau thôi.
  Người lính khi nảy làm xong hình nộm liền bò ra ruộng trống. Tôi dặn:
- Nhớ bò sát xuống đất. Ra đến chỗ trống vẫn nằm sát đất, chỉ đưa hình nộm lên quơ qua quơ lại thôi.
  Anh ta bò hỏa lực sát đất ra ruộng. Đạn vẫn bắn như rãi cát. Trong này thầy trò hồi hộp nhìn theo. Đến giửa ruộng trống, anh bèn nằm ngữa, hai tay cầm cây trúc có hình nộm trên đầu quơ qua quơ lại. Bổng ngòai lộ có tiếng la lớn:
- Có lính BĐQ của mình ở trong ấy, đừng bắn.. đừng bắn.
  Xe trước truyền cho xe sau, tiếng súng dần im bặt. Bây giờ anh lính cầm hình nộm mới dám đứng lên đưa tay vẩy chào  đòan xe. Những người lính trên các xe đang chạy cũng vẩy tay chào lại. Lòng tôi nhẹ nhỏm như trút được khỏi mình gánh nặng ngàn cân.
- Alfa lanh trí nghĩ ra cách này, thôi thầy trò mình  " te tua " rồi. Một người lính nói.
   Đòan xe qua rồi thì tới dân đi bộ. Đại Đội rút ra đường và đi đàng sau. Khi gặp lại Tiểu Đòan thì đã có xe chờ sẳn. Tiểu Đòan đi theo đòan di tản đi về Tuy Hòa.
  Đến Tuy Hòa, hầu như đa số dân được chính quyền tổ chức cho di tản bằng máy bay, nên sáng hôm sau không còn dân đi theo mà toàn là xe của lính tan rả hàng ngũ. Tiểu Đòan được lệnh lên đường. Bây giờ đi trên Quốc Lộ 1, nên di chuyển khá nhanh. Trước mặt, sừng sửng in trên nền trời là ngọn núi Đá Bia có hình tượng người mẹ bồng con trông chồng: Hòn Vọng Phu. Trong lòng tự nhiên dâng lên một nỗi ai hòai khi nhớ về sự tích người vợ bồng con đứng mong ngóng đợi chồng về mà hóa đá. Bây giờ cũng vậy. Chỉ khác tích xưa là ngày nay, những người vợ có chồng đi lính miền xa, nơi mái tranh nghèo ngày ngày cũng ôm con tựa cửa thương nhớ, lo lắng tin tức của chồng, chứ cũng không biết bao giờ vợ chồng mới tương phùng sum họp. Bổng như nghe vẳng đâu đây tiếng hát bài Hòn Vọng Phu của nhạc sĩ Lê Thương:
……………..
Dấn buớc tang bồng giữa nơi núi rừng 
Bên nợ tình thâm, bên nợ giang san
Bên đồi ai oán, bên rừng đa đoan
Tiễn đưa bóng chàng.

Đường về nước chập chùng xa
Nhiều đồi núi cheo leo
Cây với rừng rườm rà
Đường Vạn Xuyên, đường cổ Lũy
Duyên núi sông vẫn như thắm nhòa…
 ( Hòn Vọng Phu 3 )
Sao mà nó từa tựa như tình cảnh của những người lính bây giờ !!!…
  Đến xế chiều thì đến chân đèo Cả. Đại Đội 4 đi trước. Khi đến khỏang gần lưng chừng đèo thì dừng lại bố trí quân. Bên phải con lộ, hướng ra biển có một mỏm đá khá rộng và tương đối bằng phẳng. Đại Đội bố trí phòng thủ trên mỏm đá. Tôi cho bán Tiểu Đội, do một Hạ Sĩ chỉ huy và cho mang theo một máy PRC25, đóng trên sườn núi bên trái làm chốt tiền tiêu. Một đêm qua đi yên ổn.
  Sáng kế tiếp, khi mặt trời lên, đòan di tản lên đèo, thì có những tóan Việt Cộng nhỏ ẩn hiện trên sườn núi uy hiếp chốt tiền tiêu của tôi. Tôi dùng hỏa lực bằng  đại liên M60, súng phóng lựu M79, kể cả hỏa tiển M72 để cản chúng và lệnh cho chốt tiền tiêu rút xuống, đồng thời báo về Tiểu Đòan là Việt Cộng đã xuất hiện. Sáu anh em trên sườn núi cũng kháng cự bằng hỏa lực của mình,và thường xuyên báo tình hình về Đại Đội. Khỏang nữa giờ thì  chốt tiền tiêu báo về Đại Đội là xuống mới được nửa đường. Việt Cộng lúc này từ trong núi ra khá đông. Trên đầu, trái phải đều có địch vây sáu anh em. Mặc dù được Đại Đội yểm trợ hỏa lực, nhưng vì đường trên sườn núi dốc, đá cao thấp lởm chởm khó di chuyển, phần hỏa lực của Việt Cộng ra sức vây ráp, nên nửa Tiểu Đội tiền tiêu vẫn chưa xuống được bao xa. Khỏang thời gian sau,Tiểu Đòan cũng đã lên đến. Thiếu Tá Trân bảo tôi:
- Việt Cộng đã bám sát phía sau. Mi cho Đại Đội rút đi.
-Tôi còn mấy thằng em chưa xuống đường được 45.
- Độ chừng không còn kịp nửa, mi liệu rút lên cho sớm.
- 45 đi lên trước, tôi cho Đại Đội lên sau.
  Tiểu Đòan đi lên đèo. Trên đường lên đèo chỉ còn người đi bộ nhưng đã thưa, chắc chừng một ít thời gian sau thì đòan người cũng lên đèo hết. Việt Cộng  định cho quân xuống chặn đòan đi tản ở đây, nhưng đã gặp ngay chốt của Đại Đội 4 trên sườn núi và Đại Đội 4 ở dưới đường đã chặn bước của chúng, nên đã phá hỏng kế sách của chúng. Chỉ còn phía dưới chân đèo chúng vẫn bám sát theo. Riêng với tôi , đây là lỗi lầm tệ hại không tha thứ được. Nếu tôi không chủ quan, khi chỉ cho có nửa Tiểu Đội làm chốt tiền tiêu. Địa hình trên sườn núi dốc, mặc dù tránh được thương vong khi chạm súng với địch, nhưng tôi lại quên rằng với địa thế này thì khi di chuyển rất khó. Chốt lại nằm một mình đơn độc không ai yểm trợ khi rút lui.. Đại Đội thì ở dứơi đường tương đối xa. Do vậy nên khi cần rút nhanh thì không thực hiện được. Nếu tôi cho một Trung Đội chia ra nhiều tóan để yểm trợ nhau rãi từ trên sườn núi thấp dần xuống đường thì có lẻ lính của tôi đã không bị nguy khốn như bây giờ.
  Tôi liên tục liên lạc với tóan tiền tiêu. Tiểu Đòan Trưởng cũng nóng ruột, liên tục gọi máy thúc tôi rút lên đèo. Sau nhiều lần mà vẫn chưa thấy tôi lên, ông quay xuống một khỏang đường và gọi bằng miệng. Ông sợ tôi và Đại Đội 4, nếu lên không kịp có thể bị nguy, khi Việt Cộng leo lên đèo và lực lượng của chúng tràn xuống đường. Tôi thì  nấn ná đợi sáu người lính của mình. Tôi cho Đại Đội rút lên, nhưng tôi vẫn đứng lại chờ đi với trung đội sau cùng. Đang liên lạc, tôi nghe tiếng anh Hạ Sĩ nói gọn: " Tụi em bị bắt rồi ! " sau đó là tiếng của thằng Việt Cộng léo nhéo. Tôi tắt máy và đổi tần số dự phòng. Tôi thất thểu đi sau cùng của Trung Đội chót. Nước mắt tôi ứa ra. Đây là lần đầu vì sai lầm của mình mà mất sáu thằng con và một cái máy PRC25. Hối hận thì đã muộn. Đúng là khi người chỉ huy, chỉ một sai lầm thì cũng đủ giết chết lính của mình. Nhìn lên dốc đèo, tôi thêm phần xúc động khi thấy vị Tiểu Đòan Trưởng, đàn anh, của mình cũng đứng chờ cho đến khi thấy tôi đi lên thì ông mới quày quả trở lui đi lên đèo theo Tiểu Đòan.
Khi đơn vị qua vùng Vạn Ninh, Vạn Giả, Ninh Hòa, Đầm Nha Phu… tôi lại nhớ về những ngày tháng thụ huấn hai khóa Rừng Núi Sình Lầy. Lần đầu, lúc còn là SVSQ năm thứ 4, thụ huấn chỉ có 4 tuần, nên TrungTâm Huấn Luyện Biệt Động Quân Dục Mỹ chỉ cấp chứng chỉ chứ không cấp bằng vì không đủ thời gian thụ huấn.  Lần thứ hai là khi ra trường chính thức trở thành sĩ quan của binh chủng Biệt Động Quân, tức nhiên phải học lại và phải " nuốt " trọn khóa huấn luyện Hành Quân Biệt Động Rừng Núi Sình Lầy mới được cấp bằng. Đây cũng là một lò luyện thép của binh chủng Biệt Động Quân. Nhưng đối với chúng tôi, những sĩ quan xuất thân  lò luyện thép độ cao Võ Bị thì không thành vấn đề gì, nhất là so với " Tám tuần sơ khởi" ở đồi 1515. Gần Trung Tâm là trường đào tạo sĩ quan Pháo Binh. Giửa trưa nắng như đổ lửa, khóa sinh BĐQ, lưng mang balo, súng đạn mũ sắt chạy bộ vã mồ hôi ra bãi học, thì học viên của Pháo Binh ngồi trên xe, lại mang theo mỗi người một cái ghế xếp nhỏ để ngồi học. Xe chở học viên Pháo Binh khi chạy ngang chúng tôi, những khóa sinh của Rừng Núi Sình Lầy, đang thở " xì khói lổ tai ", mồ hôi ướt áo, thì các bạn cùng khóa K26 Võ Bị của chúng tôi đi học Pháo Binh ngồi trên xe nhìn chúng tôi nhỏen miệng cười. Vậy mà có một "tên" K26 ra trường chọn làm sĩ quan" súng nòng dài" đã dám "chê" là học Pháo Binh nhàn và chán, nên đã xin chuyển từ Pháo Binh qua Biệt Động Quân. "Tên" đó là Đòan Ngọc Lợi. Chắc là trong lịch sử  của Trường Võ Bị chỉ có " tên " Lợi này là độc nhất vô nhị. Đúng là " không cầu an lạc dể dàng, mà chỉ khát khao gió mưa cùng nguy hiểm ". Phục hắn thật!
  Đây là Đầm Nha Phu, nơi  học những bài học ở căn cứ sình. Nơi mà những anh chàng chưa bao giờ chèo thuyền, khi chèo thuyền cao su làm thuyền quay vòng vòng, có khi lật úp. Cả bọn cười như nắc nẻ. Nơi mà chúng tôi đã bắt sò điệp, còng, cua để nướng ăn…Tôi còn nhớ một lần, tôi, Đặng Văn Khải cùng một vài bạn nữa đã nướng những " chiến lợi phẩm " ở đầm này ăn. Sau đó thì cả nhóm bị "Tào Tháo đuổi " chỉ trừ tôi và Khải tỉnh queo vô sự. Đời lính cực nhưng vui và nhiều kỹ niệm.
  Vào một buổi sáng  của một ngày cuối tháng ba hay đầu tháng tư của năm 1975, mà nay tôi đã không còn nhớ, đơn vị đi qua thành phố Phan Thiết. Trước khi đi ngang qua thành phố Phan Thiết thì đơn vị qua một cái cầu, Vừa đến cầu thì đã ngửi thấy mùi nước mắm trong không khí. Đúng là xứ sở của nước mắm nổi tiếng khắp nước. Thành phố im lặng vắng vẻ. Vài cột khói đen đây đó vẫn còn bốc lên. Phan Thiết vừa bị Việt Cộng pháo kích đêm qua.
  Qua khỏi Phan Thiết một quảng đường khá xa, bất ngờ Tiểu Đòan gặp Trung Đòan Sinh Viên Sĩ Quan của trường Võ Bị đang  đi bộ di tản. Một chiếc xe jeep chạy lại gặp tôi. Trên xe jeep là hai người. Thiếu Tá Trân và một đại úy. Thiếu Tá Trân xuống xe gặp tôi và nói:
- Tao mệt qúa. Đám đàn em của mi tao giao cho mi lo đó.
Nói xong ông leo lên xe cùng ông đại úy chạy đi. Tôi thầm nghĩ: Đàn em của tôi , không phải là đàn em của ông chắc ! Nhưng tôi biết đó là mệnh lệnh của một Tiểu Đòan Trưởng giao nhiệm vụ cho một Đại Đội Trưởng, mà cũng là lệnh của một đàn anh giao nhiệm vụ cho một đàn em lo cho đám đàn em nhỏ hơn. Ông là chỉ huy trưởng của đơn vị thì còn bao nhiêu việc phải lo khác.Tôi quay lại thì gặp một SVSQ K28 dẫn một số đàn em K29, K30, K31 đến gặp tôi. Anh K28 nói với các anh K 31:
- Đây là niên trưởng K26 đó.  Và giới thiệu với tôi:
- Đây là K31 mới lên Sinh Viên đó niên trưởng.
Tội nghiệp các anh K31, trong bộ quần áo trận còn rộng thùng thình, mặt mày còn nét " khờ " của Tân Khóa Sinh, lật đật chập chân đứng nghiêm, giơ tay chào và xưng danh. Tôi vội xua tay:
- Thôi thôi khỏi ! Bây giờ còn xưng danh xưng họ gì nữa.
  Tôi hỏi anh K28:
- Cờ xí, cung kiếm đâu rồi, sao không thấy ai mang theo.
  Anh chợt sa nước mắt, mếu máo nói:
- Trường Mẹ đâu còn nữa để quay về… mất hết rồi niên trưởng ơi ! Cờ xí kiếm cung  trước khi vào Phan Thiết đã liệng xuống sông hết rồi!
 Tôi nghe đàn em mình vừa khóc vừa nói, trái tim tôi như ai bóp nghẹt. Nhìn đám đàn em cặp mắt đỏ hoe, hình dáng bơ phờ… Thôi hết thật rồi!.. có lẻ từ đây còn đâu nữa trường Mẹ để quay về. Còn đâu  nơi ghi dấu bao kỹ niệm của những tháng năm trui rèn vàng ngọc !!!... Nước mắt tôi ứa ra. Từ ấy đến bây giờ, cứ mỗi lần nhắc hay nhớ lại khỏanh khắc này, tôi không thể không nghẹn ngào rơi lệ.
  Tôi vội chạy tìm xe cho đàn em đi. Cuối cùng thì tôi cũng tìm được một số xe cam nhông trống đủ để chở đám đàn em tội nghiệp của tôi sau những ngày lội bộ. Tôi và Đại Đội 4 ở lại đi sau cùng để các xe chở SVSQ của trường và đòan di tản đi trước.
  Khi đòan di tản đến ngã ba vào Hàm Tân thì đòan di tản dừng lại vì có chốt Việt Cộng ở phía trước. Đại Đội 4 được điều lên phía trước. Trước mặt là cái cầu có một chiếc V100 bị cháy. Phía dưới cầu có một con suối cạn chảy ngang. Đại Đội 4 được lệnh tách đòan tiến về con suối bên phải đường. Trên đường và phía bên trái hình như là đơn vị M113 và một Đại Đội khác, tôi không nhớ rỏ. Khi Đại Đội 4 rời xa đòan di tản thì dàn đội hình tiến về con suối đang chắn ngang trước mặt. Dọc theo bờ suối là những bụi tre thưa. Khi đến gần con suối thì Trung Đội 1 đi đầu bị tấn công. Tôi đứng ở Trung Đội 1 quan sát và điều động. Quân địch nằm ở bờ suối, nhìn không thấy chúng, nhưng chúng bắn rất rát. Tôi điều Trung Đội 2 lên giăng hàng ngang cùng với Trung Đội 1 cách bờ suối một khỏang. Địch bắn càng dữ hơn, át cả tiếng tôi. Tôi phải la lớn để điều động. Mấy anh lính gần tôi nói:
- Alfa la lớn nó biết nó bắn bây giờ.
Nhưng tiếng súng của ta và địch điếc tai không la lớn làm sao lính nghe. Lính tôi nằm sát đất cũng bắn lại rất hăng. Vì cấp bách tôi đã vô tình cướp quyền chỉ huy của Trung Đội Trưởng mà không biết. Tôi báo lại với Tiểu Đòan Trưởng là địch núp dưới bờ suối bắn rát qúa. Ông trả lời với giọng tỉnh bơ:
- Tao nghe tòan tiếng súng của lính mi bắn không, chứ có tiếng súng nào của Việt Cộng bắn đâu.
- Tôi không biết nữa, nhưng nó bắn rát lắm.
Tôi lấy làm lạ. Đúng, nghe tòan là tiếng súng M16, M79, M60 không thôi, chẳng có tiếng súng nào là của AK hay B40.
- 45 ! Chắc là nó lấy súng của mình bắn mình. Thật sự thì nó bắn chứ đâu phải của lính mình không.
- Để tao lên coi.
  Ông đi gần lên phía tuyến đầu của Đại Đội một đọan thì một quả M79 rớt phía trước mặt. Bây giờ ông mới tin là súng của Việt Cộng. Tôi nghĩ, không lẻ mình cứ nằm bắn đua hòai với nó. Làm sao cho nó bứt khỏi suối? Tôi quan sát địa thế để tìm cách cho quân áp sát bờ suối. Tôi ra lệnh cho hai Trung Đội vừa bắn vừa bò sát mặt đất tiến dần lên gần bờ suối. Lính mình ở phía trên lợi thế hơn, nên bắn xuống sát mặt đất dọc theo bờ suối làm bọn chúng không thể trườn lên bờ để bắn sát mặt đất được. Đạn của chúng, vì vậy ở tầm cao hơn một chút không thể gây sát thương quân ta. Quân ta bò gần đến bờ suối thì đạn đi càng chúi xuống suối, bọn chúng buộc phải lùi sâu xuống suối. Khi thấy quân mình đã đến gần sát các bụi tre ở bờ suối, tôi bèn ra lệnh cho hai Trung Đội Trưởng:
- Khi có lệnh thì các anh  cho tất cả xung phong, đứa nào đứng lại hay thụt lui thì tôi bắn vô đít đó.
  Lệnh cho Trung Đội 3 ở sau lên sẳn sàng yểm trợ khi cần. Xong,tôi hô lớn:
- Xung phong !
Hai Trung Đội cùng đứng lên hô " xung phong " ôm súng vừa bắn vừa chạy càn xuống suối. Khi nghe lính mình hô xung phong, địch bỏ chạy ngược lên trên một ngọn đồi bên kia suối quên cả bắn lại. Hai Trung Đội sẳn đà càn luôn qua suối đuổi theo. Một lát sau, tôi nghe thẩm quyền của Trung Đội 1 báo:
- Alfa ! Tụi tôi rượt  tụi nó chạy lên đồi. Nhìn lên đồi có một cái đồn cắm cờ vàng ba sọc đỏ của mình. Tui nó chạy vô cái đồn đó.
Nghe vậy, tôi liền bảo:
- Dừng lại ! Coi chừng mắc bẩy của Việt Cộng, đợi tôi báo lại 45 !
Tôi liền báo lại cho Thiếu Tá Trân. Chừng khỏang 5 phút sau, tiếng Tiểu Đòan Trưởng vang trong máy:
- Đó là Địa Phương Quân của Tiểu Khu Bình Tuy được lệnh lập chốt án ngữ không cho lính chạy làng vào Hàm Tân vì sợ bị quậy phá. Tụi nó báo với Tiểu Khu là bị một Đại Đội Biệt Động Quân không biết của đơn vị nào đánh dữ quá nên đã rút vô đồn.
  Trở lại trên đường, tôi gặp Đại Úy Hội của Chi Đòan Thiết Vận Xa M113cùng sát cánh với Tiểu Đòan 34 BĐQ trên quảng đường di tản này. Đây lần thứ hai tôi gặp ông, nhưng giờ đây trên cổ áo ông lấp lánh một bông mai bạc. Ông được đặc cách tại mặt trận cũng xứng đáng thôi. Nhưng còn Thiếu Tá Trịnh Trân, Tiểu Đòan Trưởng của Tiểu Đòan 34 BĐQ của tôi cũng xứng đáng, còn có phần hơn, sao lại không được ? Tôi thắc mắc trong lòng, nhưng không biết hỏi ai.
  Sau khi ổn định, Tiểu Đòan rẻ trái đi bộ vào Hàm Tân. Lúc này tôi không biết SVSQ Trường Vỏ Bị đang ở đâu. Nghe nói là đã vào Hàm Tân rồi. Được như vậy thì qúa tốt, tôi nghĩ thầm.
  Tôi đang đi trên đường vào Hàm Tân với CB của mình. Các Trung Đội đi hàng dọc hai bên đường. Đối diện với tôi, ở chiều ngược lại, một người mặc đồ trận, đầu đội nón bo rộng vành, bên hông mang một cây Colt 45 xăm xăm tiến gần đến trước mặt tôi. Lính của tôi e dè đề phòng để bảo vệ thầy mình. Gần thêm một chút, khi thấy rỏ nhau, cả hai chạy lại ôm chầm lấy nhau, mừng không kể xiết.
- Tóan! Mày khỏe không? Đi đâu đây ?
- Tiếm! Gặp mày ở đây tao mừng qúa !
  Không bút mực nào tả hết nỗi vui mừng của hai thằng bạn thân bất ngờ gặp lại nhau  trong hòan cảnh dầu sôi lửa bỏng thế này. Từ ngày ra trường đến nay, Tóan chọn Sư Đòan 18, còn tôi chọn BĐQ,  mỗi thằng một phương trời, cũng chẳng biết tin tức gì nhau. Hai thằng hỏi thăm nhau vài phút thì chia tay. Thấy tôi đeo 4 trái lựu đạn mini trên dây ba chạc, Tóan xin tôi hai trái, tôi tặng Tóan xem như một chút quà để Tóan hộ thân. Tóan đi rồi, trong lòng tôi cảm thấy bùi ngùi. Rồi đây hai thằng không biết có còn gặp lại nhau không ! Đời lính trận nay còn mai mất nào ai biết trước được! Nhớ lúc trong trường, hai thằng cùng nhau về Sài Gòn làm quyển Lưu Niệm cho khóa; hai thằng ngày đêm vẽ, cắt, dán các pano hộp đèn để kịp trang hòang cho Lễ Trao Nhẫn. Hai thằng cũng được bè bạn gọi là "hai người hùng cô độc" vì tôi với Tóan chẳng có cô nào để làm bạn, nên thường đi phố chung với nhau: đi nghe nhạc, đánh bi da, uống cà phê…Nhớ nhất là Tóan chuyên uống cà phê đen không đường. Có một lần vào dịp Tết, hai thằng đánh bi da từ sáng cho đến trưa. Hai thằng chuẩn bị trả tiền rồi đi ăn cơm trưa thì bà chủ hỏi:
- Hai cậu không có quen ai ở Đà Lạt hay sao mà tôi thấy hai cậu lần nào ra phố cũng đánh bi da cả buổi, có khi luôn cả buổi chiều.
  Hai thằng cười:
- Tụi tôi cu ki chỉ có hai đứa với nhau, nên cũng không biết đi đâu.
- Thôi bửa nay, tiền bi da thì coi như tui lì xì, sẳn cũng trưa rồi mời hai cậu ở lại ăn cơm với gia đình tui.
Tất nhiên hai thằng đều đồng ý…Thước phim kỹ niệm đang quay chậm trong đầu, bổng lóang thóang bên tai tôi nghe mấy người lính của tôi nói chuyện.
- Tao thấy ông đó xăm xăm đi tới trước mặt Alfa, tao sợ ổng làm bậy, nên chuẩn bị " phơ ".
- Ông đó hình như là bạn cùng khóa với ông thầy mình.
- Hèn chi gặp nhau hai ông mừng quá ôm nhau thân thiết.
- Dân Võ Bị mấy ổng thương nhau lắm.
- Alfa mình cũng là đàn em của 45 đó.
- Hèn gì…
  Tôi không còn nghe tiếp, nhưng trong lòng dâng lên niềm vui và sự tự hào.
  Quá trưa thì Tiểu Đòan vào đến cửa ngỏ quận lỵ Hàm Tân. Hai bên đường đã có nhà cửa của dân. Tiểu Đòan 34 được lịnh tước vũ khí của lính di tản. Thiếu Tá Trân kêu tôi lại và ra lệnh:
- Giao cho Đại Đội 4 của mi làm an ninh tước vũ khí của lính di tản.
   Nghe xong, tôi thấy sợ. Chính Đại Đội 4 đã nếm mùi " đau khổ" với các lọai vũ khí của đòan quân nhân di tản này ở Củng Sơn rồi. Nếu họ không nghe lời mà đồng lọat càn vô quận lỵ, thì với đủ lọai vũ khí mà họ có, đừng nói Đại Đội 4 mà cả Tiểu Đòan 34 cũng chưa chắc chặn họ lại được. Đánh với Việt Cộng tôi không sợ, nhưng tước vũ khí đám lính này tôi thấy sợ. Tôi bèn nói với Thiếu Tá Trân :
- Làm sao mà tước vũ khí của đám lính hổn quân hổn quan này được 45. Nếu họ không chịu nghe lời cho tước vũ khí thì sao ?
- Tao không biết. Đây là lệnh. Nhưng tao biết chỉ có mi mới làm được nhiệm vụ này.
 Tôi bèn quay lại với Đại Đội. Gọi các Trung Đội Trưởng và CB Đại Đội lại rồi nói:
- Đại Đội 4 mình được lệnh tước vũ khí lính di tản trước khi cho họ vào Hàm Tân. Đây là một nhiệm vụ vô cùng khó khăn. Các anh phải trong tư thế sẳn sàng đối phó khi có biến cố.
  Sau đó tôi  ra lệnh:
- CB Đại Đội và tôi sẽ chặn ngang giửa đường lập hàng rào tước vũ khí. Trung Đội 1 bên trái, Trung Đội 2 bên phải  bố trí dọc theo hai bên lề đường, tạo thành hình chữ U. Bravo đi với Trung Đội 3 đến gần cuối  đòan di tản phục bên phải đường. Tất cả súng trên tay sẳn sàng chiến đấu.
  Tất cả nhanh chóng thi hành. Tôi tìm một chiếc xe jeep để nằm chặn ngang mặt đường, tôi đứng trên carbo xe tay cầm M16, để dể quan sát. CB Đại Đội đứng giăng hàng ngang trước mặt tôi.Tổ chức bố trí xong , vừa lúc ấy đòan quân nhân di tản cũng vừa đi tới. Những người đi đầu còn cách chỗ chiếc xe tôi đang đứng chừng hai mươi mét thì lính tôi ra hiệu cho tất cả dừng lại. Một mình đứng trên carbo xe cao hơn tất cả, đưa mắt nhìn đòan lính di tản ngày càng dồn lên đông kịt, chật cứng và kéo dài trên đường, tay người nào cũng lăm lăm vũ khí, tôi đổ mồ hôi hột, nhưng lại cảm thấy một luồng khí lạnh chạy dọc sống lưng. Tôi lấy hết tinh thần hô lớn:
- Tất cả anh em hảy ngồi xuống tại chỗ.
  Đám đông lao xao một chút, nhưng tình trạng vẫn như cũ. Tôi dặn nhỏ Tiểu Đội CB trước mặt:
- Khi thấy tôi phất tay thì tất cả nổ súng, nhưng nhớ kỷ là bắn cao khỏi đầu của họ. Mình chỉ dọa họ thôi.
  Đây thực sự là tôi đang đánh bài liều với sinh mạng của mình và của binh sĩ mình. Năm ăn năm thua, nhưng tôi nghĩ không còn cách nào khác. Tôi nghĩ với tâm lý ai cũng muốn được vào Hàm Tân về Sài Sòn có thể họ sẻ không manh động. Tôi cố gắng nói lớn hết sức để mọi người nghe rỏ.
- Tất cả các anh em hảy ngồi xuống tại chỗ để nghe tôi nói chuyện. Tôi đếm ba tiếng anh em nào không chịu ngồi xuống lạc đạn chết là do các anh.
- Một…hai…ba.
Vừa dứt lời, đồng thời tôi phất nhẹ tay về phía trước. Tiểu Đội chỉ huy đồng nổ súng một lọat. Những người ở phía trước ngồi xuống và rồi tất cả đều ngồi xuống. Tôi thở phào nhẹ nhỏm. Ổn định xong,tôi nói lớn:
- Tất cả anh em nghe đây. Chúng tôi được lệnh của Tiểu Khu Trưởng làm an ninh ở đây để các anh em vào Hàm Tân xuống tàu về Sài Gòn, với điều kiện là tất cả anh em phải giao nộp lại tất cả vũ khí đạn dược mang bên mình. Tôi xin bảo đãm tất cả anh em sẽ được lần lượt xuống tàu về Sài Gòn, không để lại một người nào. Chúng tôi là những người sau cùng vào Hàm Tân và về Sài Gòn với các anh em.
  Tất cả đều im lặng lắng nghe. Tôi nói tiếp:
-  Bây giờ theo hàng một , không được chen lấn xô đẩy, từng người đi lên đến hàng rào an ninh của anh em đơn vị chúng tôi, các anh bỏ tất cả vũ khí xuống. Trước khi đi vào trong, anh em phải để các anh em binh sĩ của chúng tôi khám xét người các anh em, để bảo đãm là trên người các anh em không còn bất cứ lọai vũ khí  nào. Xong rồi các anh được tự do đi vào.
  Những người phía trước từ từ đứng dậy xếp thành hàng một, từng người tiến lên. Khi đến trước Tiểu Đội chỉ huy của Đại Đội đang xếp hàng ngang, liền bỏ súng đạn xuống sang một bên. Hai người lính của Tiểu Đội chỉ huy khám người xong thì mới được đi qua. Bây giờ mới thấy, ngòai cây súng và đạn họ mang theo, trong người còn nào là lựu đạn, súng colt, ru lo. dao găm, lưởi lê…Phút chốc, súng đạn chất thành một đóng to đùng  với đầy đủ các lọai. Thảo nào khi ở Củng Sơn, với vũ khì đạn dược này, thầy trò chúng tôi đã một phen " thừa chết thiếu sống ". Nhớ lại thật là hú vía !
  Trời ngày càng về chiều. Đứng cao trên carbo xe, đưa mắt nhìn về phía cuối, bổng tôi thấy một người lính mặc đồ rằn ri đang đứng đưa tay vẩy tôi. Tuy chưa nhận rỏ mặt, nhưng tôi nhìn người này đầu niểng một bên, tôi biết ngay là Nguyễn Thiện Nhơn bạn cùng Khóa 26 với tôi.
- Các anh ở dưới tránh một bên để ông Trung Úy đó lên gặp tôi.
 Nhơn tay không đi lên gặp tôi. Tôi hỏi:
- Ê! Phòng 7 Nha Kỹ Thuật- Lôi Hổ sao lại lạc ở đây cha ?
- Tao đi thả tóan ngòai này.
  Nhơn nhanh chân đi qua, không có thời gian để hai thằng nói chuyện nhiều. Bổng tôi nghe tiếng cự cải với hai người lính làm nhiệm vụ khám xét. Tôi hỏi hai người lính:
- Chuyện gì thế ?
- Dạ Alfa, ông Đại Tá này không chịu bỏ súng xuống.
 Tôi bước xuống xe đến chào ông Đại Tá. Ông đang mang bên hông một cây ru lo nòng ngắn. Ông hỏi với giọng bực tức:
- Tôi cũng phải bỏ súng xuống hay sao? Tôi là Đại Tá Tham Mưu Trưởng… Tôi cắt lời:
- Đại Tá cảm phiền vì đây là lệnh. Chúng tôi không làm khác được. Xin Đại Tá cởi bỏ súng xuống.
  Ông nổi giận, tay chỉ vào ba cái bông mai bạc có đế thêu trên ve áo của ông và nói:
- Anh biết đây là cái gì không? Các anh là lính tác chiến chứ đâu phải là an ninh quân đội lại đi làm cái chuyện này.
  Tôi nỗi nóng, nhưng cố dằn, nhấn mạnh từng tiếng to và quyết liệt:
- Thưa Đại Tá! Tôi không biết mặt Đại Tá. Việt Cộng cũng có thể giả Đại Tá để len lỏi vào. Nếu là Đại Tá của QLVNCH thì Đại Tá phải biết quân lệnh là như thế nào.  Chúng tôi không phải an ninh quân đội, nhưng lệnh cấp trên giao nhiệm vụ này cho chúng tôi. Đây là quân lệnh thưa Đại Tá. Tôi là sĩ quan cấp dưới được giao nhiệm vụ, nhất định phải thi hành. Để không mất thì giờ của các anh em khác, nếu Đại Tá không chịu cởi bỏ súng, xin phiền Đại Tá đứng tránh sang bên, nhường đường đi cho các anh em khác.
  Có lẻ không biết làm sao hơn với thái độ kiên quyết của tôi, ông hậm hực cởi cây súng và liệng mạnh vào đóng súng phía bên. Hai người lính của tôi khám ông xong . Ông tức đỏ mặt tía tai lầm bầm đi vào.
 Qua thời gian tàn một điếu thuốc, nhìn xuống đám đông còn đang ngồi, một ông Đại Úy mặc đồ trận, đứng ở giửa đưa tay vẩy tôi và gọi: Tiếm! Tiếm! Tôi nhìn kỷ ra là Đại Úy Nguyễn Tống Hiến K20, cựu Sĩ Quan Cán Bộ Đại Đội G của tôi lúc tôi còn  là SVSQ năm thứ 3 của Trường Võ Bị. Tôi ra dấu và nói:
- Các anh né qua cho ông Đại Úy đó lên đây gặp tôi.
 Khi ông lên đến chỗ tôi. Tôi giơ tay chào:
- Chào Niên Trưởng ! Ủa sao Trường đã vào Hàm Tân lâu rồi mà bây giờ Niên Trưởng còn ở đây ?
  Câu trả lời của  Niên Trưởng Hiến giờ thì tôi không còn nhớ rỏ. Thấy ông tay không, nên bảo hai người lính của tôi cho ông vào.
  Sau khi lính di tản đã vào hết, tôi thấy Thiếu Tá Trân liên lạc máy. Một lúc quay lại với vẻ tức giận, ông nói:
- Có lịnh Tiểu Đòan 34 ở lại sát nhập với Sư Đòan 22 bộ binh, đâu có được.
  Thiếu Tá Trân lại gọi cho ông Tư lệnh nào đó, tôi chỉ nghe lóang thóang, đại ý là Tiểu Đòan 34 là đơn vị duy nhất còn nguyên của Liên Đòan 6 BĐQ. Tiểu Đòan đã có công đưa đòan di tản về Hàm Tân… Xin được về Sài Gòn và vẫn là Tiểu Đòan 34 cũa Liên Đòan 6 BĐQ… Một lúc sau thì được chấp thuận cho Tiểu Đòan về Sài Gòn  không bị ở lại sát nhập. Tôi nghe vậy cũng mừng...
THAY LỜI KẾT
Chiếc tàu nhẹ nhàng lướt sóng cách bờ khỏang hơn một dặm. Mặt trời xuống thấp ở chân trời. Ánh nắng nhẹ cuối ngày rọi trên những ngọn sóng nhấp nhô, lắp lánh trông như  hàng ngàn chiếc gương đang phản chiếu. Gió thổi nghe mát lạnh. Thiếu Tá Trân và tôi ngồi trên boong ở đầu tàu. Hai ly cà phê được người lính bưng ra để trước mặt hai chúng tôi đang bốc khói, thoang thỏang mùi thơm quen thuộc. Thiếu Tá Trân đưa tôi một điếu thuốc. Ông vói tay mở chiếc máy cassette. Một giọng ca nữ quen thuộc vang lên  bài hát trữ tình. Cả tôi và ông đều im lặng nhấp từng ngụm cà phê, nhả nhẹ nhàng từng hơi khói thuốc uốn éo lảng đãng lõang ra tan vào không khí, mắt nhìn xa xăm ra biển trời mênh mông…mỗi người theo đuổi ý nghĩ của riêng mình. Nhìn cảnh trời nước bao la, mặt trời giờ chỉ còn là một hình tròn đỏ ối ở đường  chân trời. Gió lúc này đã thổi mạnh hơn một chút. Tiếng sóng vỗ vào thân tàu đều đặn nghe " lách tách, lách  tách " như một điệu nhạc vui tai. Tự nhiên tâm hồn tôi nghe nhẹ nhàng khoan khóai, quên hết mọi ưu tư cực nhọc của những ngày qua, tưởng như mình đang đi du sơn ngọan thủy trên một con tàu của một đất nước thanh bình…
HẾT
Ghi thêm:
* Anh K28 khóc và nói với tôi cùng các anh K29, K30, K31 mà tôi gặp khi Tiểu Đòan 34 BĐQ và Trung Đòan SVSQ của Trường Võ Bị gặp nhau trên đường về Hàm Tân Bình Tuy, tôi không biết tên và cũng không nhớ cho đến năm 2012, khi tôi qua Mỹ và đang ở Washington DC để dự ĐH 18 thì được vợ chồng Nguyễn Thiện Nhơn từ Florida sang đưa tôi một phong thư, một chiếc áo sơ mi và $100, nói là của một anh K28 gữi. Nhìn lên bì thư thì có tên là Châu Thiết Lập. Trong thư anh Lập nhắc lại chuyện 37 năm về trước khi gặp nhau ở đường về Hàm Tân, tôi mới biết anh K28 đã khóc và nói với tôi… đó là Châu Thiết Lập K28.
* Khi đi du lịch vòng quanh Washington DC, người ngồi sát bên tôi là Niên Trưởng Nguyễn Tống Hiến CSVSQ K20, cựu SQCB ĐĐ G. Cả hai anh em không nhìn ra nhau, nhờ Niên Trưởng Nguyễn Em K25 nhắc tôi mới nhớ và Niên Trưởng Hiến nhớ tôi khi nhắc cuộc gặp ở Hàm Tân.( Đã kể trong "Mỹ du ký" )
*  Bạn cùng khóa 26, cùng Tiểu Đòan 34 BĐQ với tôi là Võ Tòan, khi TĐ 34 di tản thì Tòan về phép trước đó. Từ đó thì tôi không gặp lại cho đến kỳ họp mặt khóa gần đây, Tòan mới kể cho tôi nghe là trên đường trở vào đơn vị thì gặp lại TĐ ở  Vạn giả, Ninh Hòa và làm ĐĐP ĐĐ2, nhưng suốt thời gian di tản, ngay khi về Long Bình, tôi và Tòan cũng không gặp lại. Và cũng trong một lần họp khóa tôi mới biết Tòan thế tôi làm ĐĐT ĐĐ4 khi tôi bị thương ngày 28/4/75 ở Rạch Chanh, Thủ Thừa, Long An.
__._,_.___

No comments:

Post a Comment